Lợi thế cạnh tranh của tài sản tri thức tại các doanh nghiệp hiện nay

ThS. NCS. NGUYỄN THỊ THANH (Khoa Kinh tế Tài nguyên Môi trường, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT:

Trong thời kỳ khoa học, công nghệ không ngừng phát triển như hiện nay, tri thức đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực, đặc biệt trong sản xuất kinh doanh. Đây là công cụ tạo lợi thế cạnh tranh hiệu quả và bền vững cho doanh nghiệp cũng như quốc gia.

Bài viết phân tích quản lý tri thức nhằm xây dựng nền kinh tế tri thức, góp phần đưa kinh tế Việt Nam nói chung và doanh nghiệp nói riêng phát triển theo xu hướng thế giới.

Từ khóa: Tài sản tri thức, quản lý tri thức, kinh tế tri thức, lợi thế cạnh tranh, doanh nghiệp.

1. Đặt vấn đề

Ở Việt Nam, các nhà quản trị doanh nghiệp cần quan tâm và chú trọng việc ứng dụng tri thức, chất xám trong quá trình điều hành, sản xuất, kinh doanh. Trong xu hướng toàn cầu hóa, khi các lợi thế cạnh tranh về vật chất được xem là yếu tố cơ bản, thì hàm lượng tri thức trong mỗi sản phẩm, dịch vụ sẽ là nhân tố quyết định đến sự thành bại trong kinh doanh.

Thành công của việc sử dụng tri thức như một công cụ tạo ra lợi thế cạnh tranh có thể thấy rõ thông qua “sự trỗi dậy thần kỳ” của Nhật Bản hay của Israel - những quốc gia nghèo về tài nguyên, bên bờ vực của chiến tranh, cơ sở vật chất hầu như không có gì. Chính tri thức đã trở thành chìa khóa để hai quốc gia này có được nền khoa học - kỹ thuật hàng đầu thế giới trên nhiều lĩnh vực, công nghiệp.

1.1. Tri thức là một tài sản

Trong nền kinh tế hiện nay, tri thức là tài sản của công ty. Rất nhiều nhà lãnh đạo đã nhìn nhận được giá trị của công ty nằm ở chính mỗi nhân sự giỏi mà họ có, chứ không phải ở những cỗ máy sản xuất hữu hình hay những tòa nhà lớn. Chính xác hơn, tri thức của mỗi nhân sự mới thật sự là tài sản quan trọng nhất của công ty. Tri thức ở đây là sự hiểu biết, kiến thức, kỹ thuật cá nhân và kinh nghiệm của nhân sự trong công việc, quan hệ đối tác.

Một trong những lợi ích của việc thực hiện quản trị tri thức trong tổ chức là những tác động tích cực của nó đối với hiệu quả của doanh nghiệp. Một số nghiên cứu cho thấy, có một mối quan hệ tích cực giữa các hoạt động quản trị tri thức đến việc cải thiện hiệu quả của tổ chức (Abdel Nasser H. Zaied, 2012); việc quản trị tri thức có ảnh hưởng đến năng lực lãnh đạo và năng lực lãnh đạo này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của tổ chức (Francisco Javier Lara, 2008). Như vậy, thực hiện tốt việc quản trị tri thức sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn cho doanh nghiệp.

1.2. Nhà quản trị cần quản lý tài sản tri thức hiệu quả

Trong thực tế, điều này không đơn giản vì tri thức thường tồn tại riêng lẻ trong mỗi cá nhân thông qua quá trình hấp thụ thông tin của riêng họ và chỉ có người đó mới sử dụng được. Để tri thức của mỗi cá nhân biến thành tài sản tri thức của tổ chức, đòi hỏi phải có một cơ chế, quá trình kiến tạo, lưu giữ, chia sẻ, phát triển trong mỗi doanh nghiệp. Để thực hiện điều này, vai trò của người lãnh đạo có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Không chỉ khuyến khích, ghi nhận việc chia sẻ tri thức, nhà quản lý phải chủ động tham gia chia sẻ tri thức một cách tích cực bên cạnh việc hướng nhân viên cùng phát triển các nguồn tri thức nội bộ, như: cộng đồng chia sẻ, hội thảo nội bộ... Quá trình này không chỉ làm giàu tri thức của các cá nhân mà còn là động lực cho việc không ngừng học hỏi của từng nhân viên.

2. Lý thuyết về tri thức và quản trị tri thức

2.1. Định nghĩa và phân loại tri thức

2.1.1. Định nghĩa tri thức

Để hiểu rõ khái niệm tri thức ta phân biệt tri thức với các khái niệm tương đồng khác là dữ liệu, thông tin, trí tuệ. 

Hình 1: Dữ liệu, thông tin, tri thức

du_lieu_thong_tin_tri_thuc

Dữ liệu là những con số hoặc dữ kiện thuần túy, rời rạc mà quan sát hoặc đo đếm được, không có ngữ cảnh hay diễn giải. Dữ liệu được thể hiện ra ngoài bằng cách mã hóa và dễ dàng truyền tải. Dữ liệu được chuyển thành thông tin bằng cách thêm giá trị thông qua ngữ cảnh, phân loại, tính toán, hiệu chỉnh và đánh giá.

Thông tin là những mô hình hay tập hợp dữ liệu đã được tổ chức lại và diễn giải đặt trong bối cảnh và nhằm một mục đích cụ thể. Thông tin là những thông điệp thường được thể hiện theo dạng văn bản hoặc giao tiếp, có thể thấy được hoặc không thấy được…, nhằm mục đích thay đổi cách nhận thức của người nhận thông tin về các vấn đề cụ thể, cũng như gây ảnh hưởng đến sự đánh giá và hành vi của người nhận. Hơn nữa, thông tin là những dữ liệu được tổ chức lại vì một mục đích nào đó nên sẽ giảm bớt sự không chắc chắn. Đó cũng chính là sự khác biệt của thông tin với dữ liệu. Tương tự như dữ liệu, thông tin được mã hóa và tương đối dễ dàng truyền tải.

          Có nhiều định nghĩa khác nhau về tri thức. Theo nghiên cứu của Davenport (1998), tri thức là một tập hợp bao gồm: kinh nghiệm, giá trị, thông tin và sự hiểu biết mà có thể giúp cá nhân đánh giá và thu nhận thêm kinh nghiệm và thông tin mới. Hay tri thức là sự pha trộn của kinh nghiệm, các giá trị và thông tin theo ngữ cảnh. Như vậy, trong một tổ chức, tri thức không chỉ được hàm chứa trong các văn bản và tài liệu mà còn hiện diện trong các thủ tục, quy trình, nguyên tắc và các thông lệ.

          Tương tự Davenport và cs, (1998), Bender và cs (2000) định nghĩa, tri thức bao gồm những dữ kiện, thông tin, sự mô tả, hay kỹ năng có được nhờ trải nghiệm hay thông qua giáo dục và đúc rút kinh nghiệm.

         Cũng có nghiên cứu coi tri thức là một trạng thái của nhận thức, đối tượng, quy trình, điều kiện truy cập thông tin hay khả năng của con người (Champika và ctg, 2009).

           Như vậy, có nhiều khái niệm khác nhau về tri thức, nhưng đều có chung nhận định: Tri thức là kiến thức và kỹ năng. Những kiến thức và kỹ năng có thể tồn tại dưới dạng dữ kiện, thông tin, kiến thức thu nhận từ quá trình đào tạo hay kinh nghiệm đúc rút được từ thực tiễn.

2.1.2. Phân loại tri thức

Grant (1996) chia tri thức làm hai loại: Tri thức hiện và tri thức ẩn. Trong đó, tri thức hiện được khám phá thông qua việc chuyển tải, còn tri thức ẩn được khám phá thông qua việc áp dụng. Ví dụ: ngôn ngữ và các mẫu của ký hiệu giao tiếp, chữ viết, con số là các tri thức hiện. Tri thức ẩn không thể hệ thống hoá, mà chỉ có thể quan sát được thông qua cách thức ứng dụng và được thu nhận thông qua kinh nghiệm. Ví dụ, các cá nhân thông qua phép ẩn dụ, suy diễn và các câu chuyện hàng ngày có thể cho người khác trong tổ chức thấy được kinh nghiệm hay những tri thức ẩn của họ.

Boisot (1998); Kugut và cs (1992), Berg (2012) đã tìm ra 3 dạng của tri thức: Tri thức ẩn (Tacit knowledge); Tri thức được mã hoá (Codified- tri thức hiện có thể quan sát được); Tri thức đóng gói (Encapsulated - tri thức hiện không quan sát được).

Việc kết hợp 3 loại tri thức trên như thế nào tùy thuộc vào đặc tính của tổ chức ở từng giai đoạn trong chuỗi giá trị gia tăng của mình (Berg, 2012). Bảng 1 tổng hợp các đặc điểm khác biệt cơ bản của ba loại tri thức: tri thức ẩn, tri thức được mã hoá và tri thức đóng gói. 

Bảng 1. So sánh các loại tri thức

so_sanh_cac_loai_tri_thuc

(Nguồn: Tổng hợp luận án tiến sĩ của tác giả Hoàng Hải Yến)

2.2. Định nghĩa quản trị tri thức

Thuật ngữ quản trị tri thức được đề cập vào đầu những năm 1980 nhưng không được đón nhận. Mãi đến những năm 1990, thuật ngữ này mới được các nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu rộng rãi. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản trị tri thức.

Như vậy, quản trị tri thức là một khái niệm rộng lớn, vừa có quan điểm mang tính cơ học (coi tri thức là tài sản) vừa có quan điểm thiên về định hướng xã hội (tri thức được tạo ra trong tổ chức thông qua những quan hệ xã hội). Các khái niệm được nêu ra trong các nghiên cứu không giống nhau nhưng đều có chung đặc điểm sau:

Quản trị tri thức là cả một quá trình liên tục trong việc tạo lập, chuyển giao, sử dụng, bảo vệ tri thức.

Quản trị tri thức là quá trình quản trị liên quan đến con người, công nghệ thông tin, trong đó con người đóng vai trò trung tâm.

Hình 2. Quản trị tri thức (Knowledge Management)

quan_tri_tri_thuc

Tuy nhiên, các nhà quản trị cần có sự khác biệt giữa quản trị tri thức và quản trị công nghệ thông tin. Trong khi quản trị công nghệ thông tin tập trung vào thu thập và xử lý thông tin mà ít quan tâm đến quá trình sáng tạo sản phẩm, dịch vụ thì quản trị tri thức bao hàm cả hai nội dung trên: Thu thập, xử lý thông tin cũng như sự sáng tạo về sản phẩm, dịch vụ (Gold và ctg 2001). Quản trị tri thức lấy yếu tố con người làm trọng tâm. Công nghệ thông tin là yếu tố hỗ trợ quan trọng cho quản trị tri thức

Các quy trình tri thức trong môi trường KM được quản lý như thế nào để chuyển đổi tri thức cho hành động và để đạt được kết quả mong muốn về giá trị gia tăng trong tổ chức hoặc các hoạt động cụ thể.

Có ba quan điểm chung trong chu kỳ KM mà doanh nghiệp cần áp dụng, đó là: quản lý, ứng dụng và con người.

Hình 3: Chu kỳ quản trị tri thức      chu_ky_quan_tri_tri_thuc   

a. Managemnet: Xây dựng văn hóa, tổ chức, nắm bắt và sáng tạo tri thức

Truyền thông là điểm then chốt cho quá trình quản lý thay đổi trong doanh nghiệp. Sự tin tưởng và cam kết, chuyên nghiệp và trách nhiệm giải trình, minh bạch và đổi mới.

Dữ liệu / thông tin / kiến thức trở thành cạnh tranh cho một tổ chức. Để tăng tính cạnh tranh, doanh nghiệp cần có những giải pháp tốt thông qua việc khai thác hiệu quả tri thức từ từng nhân viên cũng như toàn bộ doanh nghiệp.

b. People: Học tập, chia sẻ và phân phối tri thức

Tổ chức học tập, Sự thay đổi nhanh chóng trong hoạt động doanh nghiệp: Sản phẩm, dịch vụ luôn thay đổi, trao đổi và giá thì biến động hàng ngày, cùng với đó, cơ sở dữ liệu khách hàng đang phát triển từng phút - thậm chí mỗi giây. Cần phải cập nhật và chia sẻ thông tin về sản phẩm, dịch vụ và khách hàng liên tục trong toàn bộ doanh nghiệp.

c. Application: Tìm kiếm, khám phá và ứng dụng tri thức

Trong lĩnh vực công nghệ thông tin hiện nay, có rất nhiều công cụ khác nhau có thể hỗ trợ quản lý và chia sẻ kiến thức  và kinh nghiệm trong đội ngũ quản trị, nhân viên mà không có những hạn chế về địa lý.

3. Giải pháp quản trị tri thức tại các doanh nghiệp

Nắm bắt và sáng tạo tri thức; chia sẻ và phân phối tri thức; tìm kiếm và ứng dụng tri thức là 3 vấn đề mà doanh nghiệp quan tâm. Thêm vào đó, việc quản lý tri thức tốt sẽ mang lại hiệu quả trong quá trình hoạt động sản xuất. Nhà quản trị doanh nghiệp cần thực hiện một số giải pháp sau để bắt kịp với sự phát triển của nền kinh tế trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng.

  • Các chính sách và quy trình quản trị tri thức cần được văn bản hóa để tránh những hiểu lầm không đáng có, đồng thời dễ dàng cho việc phát hiện sai lầm xảy ra ở giai đoạn nào.
  • Xây dựng hệ thống tài liệu thống nhất để nắm bắt tri thức. Như đã nói ở trên, tri thức của một người không dễ truyền đạt cho người khác. Bằng cách thể hiện tri thức đó qua việc viết tài liệu, trao đổi..., tổ chức sẽ hoàn thiện được hệ thống tài liệu và kho cơ sở dữ liệu tri thức chung.
  • Chú trọng đào tạo, chuyển giao tri thức. Văn hoá chia sẻrất cần thiết trong hoạt động đào tạo. Những người có kinh nghiệm nên được khuyến khích và tự mình thấy có trách nhiệm trong việc chia sẻ, hướng dẫn những người ít kinh nghiệm hơn. Bên cạnh đó, tổ chức có thể tận dụng lượng tri thức của doanh nghiệp khác, nhưng phải biết cách bảo vệ tri thức riêng của tổ chức mình.
  • Liên tục cập nhật thông tin mới và học hỏi kinh nghiệm từ những việc đã làm và kinh nghiệm của tổ chức khác.
  • Chú trọng đến nhân tố con người. Con người có thể tạo ra tri thức mới và chỉ có con người mới có khả năng vận dụng tri thức đó để tiếp tục tạo ra những tri thức mới hơn. Tổ chức cần có chính sách tuyển dụng nhân lực trẻ, tạo điều kiện để những người có kinh nghiệm làm việc với những người mới. Có chế độ đãi ngộ phù hợp. Phải luôn chú ý, tri thức của một người vốn nhiều hơn những gì người đó thể hiện.
  • Ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT). Để các hoạt động chia sẻ, diễn ra một cách hiệu quả không thể thiếu vai trò của CNTT. CNTT đóng vai trò hỗ trợ, làm cho việc chia sẻ, lưu giữ, cập nhật và sử dụng tri thức được thực hiện dễ dàng hơn. Hơn nữa, tri thức được kiến tạo liên tục làm cho lượng tri thức của doanh nghiệp ngày càng khổng lồ mà chỉ CNTT mới có thể cho phép lưu giữ, phân loại, cập nhật, chia sẻ, sử dụng và phát triển một cách kịp thời và ổn định. CNTT là công cụ cực kỳ hiệu quả trong việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu/tri thức của tổ chức, cho phép nhân viên truy cập phục vụ việc ra quyết định kịp thời cũng như xây dựng mạng lưới KM theo chiều sâu và chiều rộng.

Điều khó khăn nhất để triển khai KM chính là vấn đề nhận thức, nhìn nhận tri thức là tài sản sẽ giúp nhà quản trị có ý thức bảo vệ, giữ gìn, đầu tư và tôn tạo chúng thành những khối tài sản lớn hơn.

4. Kết luận

Ngày nay, xã hội đang hướng đến một nền kinh tế tri thức. Nhiều quốc gia trên thế giới đều có những chiến lược phát triển và đề ra mục tiêu về một nền kinh tế tri thức riêng. Do đó, việc quản lý tri thức được đánh giá rất cao và được đầu tư tương đối lớn.

Tri thức - tài sản của công ty nếu không được nhìn nhận và quản lý tốt sẽ vô tình thất thoát, tạo những khoảng trống phát triển thiếu bền vững không dễ gì lấp đầy.

Tuy nhiên, để hiểu đúng và thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý tri thức là việc không dễ dàng. Quản lý tri thức có lẽ là khái niệm mới và tương đối trừu tượng, nhất là ở Việt Nam nhưng đây lại xu hướng quản lý mà nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế đang nghiên cứu, giảng dạy và phát triển. Việt Nam cần quản lý tri thức để đóng góp cho công cuộc xây dựng nền kinh tế tri thức, góp phần đưa nền kinh tế đất nước nói chung và doanh nghiệp nói riêng phát triển. Hơn hết, đây cũng là điều tất yếu theo xu hướng phát triển của thế giới.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Phạm Quốc Trung (2016). Giáo trình quản lý tri thức.NXB Xây dựng.
  2. Trương Hải Bằng (2017), Bài giảng quản lý tri thức. Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh.
  3. Asian Productivity Organization (2008). Knowledge Management in Asia: Experience and Lessons. ©APO 2008, ISBN: 92-833-7065-1. Report of the APO Survey on the Status of Knowledge Management in Member Countries (06-RP-GE-SUV-31-B).
  4. Drucker, P. (1993). Post-Capitalist Society. Butterworth Heineman, London.
  5. Grant, R. M. (1996). Toward a knowledge-based theory of the firm. Strategic Management Journal17(Winter Special), 109 - 122. 
  6. Nelson, R. R. and Sidney, G. W. (1982). An Evolutionary Theory of Economic Change. Cambridge, MA, USA: Belknap Press/Harvard University Press.
  7. Nonaka, I. (1991), The knowledge-creating company, Harvard Business Review, 96 - 104. 
  8. Nonaka, I., Toyama, R. and Konno, N. (2000), SECI, Ba and leadership, A unified model of dynamic knowledge creation. Long Range Planning33,1-31.
  9. Serban, A.M. & Luan, J., (2002). Overview of knowledge management. New Direction for Institutional Research113, 9. 
  10. Thomas H Davenport; David W De Long; Michael C Beers (1998). Successful Knowledge Management Projects. Sloan Management Review39, 2. 
  11. Gandhi , S. (2004) . Knowledge management and reference services. Journal of Academic Librarianship, 30 ( 5 ): 368 - 381 .
  12. Knowledge Management (2018). <http://www.knowledge-management-tools.net/>

 

COMPETITIVE ADVANTAGES OF KNOWLEDGE ASSETS

AT ENTERPRISES

PhD student, Master. NGUYEN THI THANH

Faculty of Natural Resource and Environment Economic

Ho Chi Minh City University of Natural Resource and Environment

ABSTRACT:

In the era of constantly evolving science and technology, knowledge plays an important role in all fields, especially in production and business fields. Knowledge could creates effective and sustainable competitive advantages for businesses and also countries. This article analyzes the knowledge management in order to build a knowledge economy, contributing to the growth of Vietnam’s economy in general and enterprises in particular.

Keywords: Knowledge assets, knowledge management, knowledge economy, competitive advantages, enterprises.