Tác động của thuộc tính khởi nghiệp tới năng lực có việc làm sau khi tốt nghiệp: Nghiên cứu sinh viên năm cuối ngành công nghệ thông tin

TS. ĐÀO TÙNG (Trưởng phòng Quản lý khoa học và Hợp tác phát triển, Viện Quốc tế Pháp ngữ (IFI), Đại học Quốc gia Hà Nội)

TÓM TẮT:

Nghiên cứu đánh giá tác động của một số thuộc tính khởi nghiệp của sinh viên ngành công nghệ thông tin (CNTT) gồm: (i) Thái độ với khởi nghiệp, (ii) Năng lực cá nhân về khởi nghiệp (NLCN về khởi nghiệp), và (iii) Động lực khởi nghiệp tới Năng lực có việc làm (NLCVL) sau khi tốt nghiệp. Nghiên cứu được thực hiện trên mẫu 210 sinh viên năm cuối ngành CNTT tại Hà Nội và khu vực lân cận. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả 3 thuộc tính khởi nghiệp đều có ảnh hưởng có ý nghĩa và thuận chiều tới NLCVL của sinh viên. Nghiên cứu một lần nữa khẳng định ý nghĩa của việc trang bị kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp cho sinh viên ngành CNTT trong quá trình học tập, giúp nâng cao NLCVL sau khi ra trường.

Từ khóa: thái độ với khởi nghiệp, năng lực cá nhân về khởi nghiệp, động lực khởi nghiệp, năng lực có việc làm sau khi tốt nghiệp.

1. Đặt vấn đề

Trang bị kiến thức khởi nghiệp đã được nhiều quốc gia và trường đại học trên thế giới coi là một phần không thể thiếu trong đào tạo đại học. Kiến thức, kỹ năng khởi nghiệp không chỉ được giảng dạy cho sinh viên các khối ngành kinh doanh mà cho nhiều ngành và lĩnh vực đào tạo (Volkmann và Audretsch, 2017). Tại Việt Nam, việc giảng dạy về khởi nghiệp trong trường đại học chưa phổ biến và chưa bắt buộc. Các cơ sở giáo dục đại học vẫn đặt nặng kiến thức, kỹ năng chuyên môn, vhướng tới mục tiêu trang bị cho người học đủ năng lực làm việc để có thể tìm được việc làm khi tốt nghiệp trong một tổ chức, công ty nào đó hơn là khởi nghiệp.

Theo nhận định của một số nghiên cứu nước ngoài, giáo dục khởi nghiệp trong trường đại học không chỉ giúp người học nâng cao năng lực khởi nghiệp (Puni et al., 2018, Lv Y et al., 2021) mà còn giúp nâng cao NLCVL cho sinh viên sau khi tốt nghiệp (Rahim và Lajin, 2015). Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam với các đặc thù riêng về môi trường kinh doanh và thị trường lao động (Nguyễn et al., 2018) thì cần có nghiên cứu chuyên sâu để đánh giá sự tác động này.

Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá tác động của 3 thuộc tính khởi nghiệp (thái độ với khởi nghiệp, năng lực cá nhân về khởi nghiệp và động lực khởi nghiệp) tới NLCVL của sinh viên sau khi tốt nghiệp trong bối cảnh Việt Nam. Nghiên cứu được thực hiện với các sinh viên năm cuối ngành CNTT.

2. Thuộc tính khởi nghiệp và cảm nhận NLCVL

2.1. Khởi nghiệp và thuộc tính khởi nghiệp

Khởi nghiệp là quá trình tạo ra và khai thác một sự đổi mới kinh tế mang lại giá trị mới cho thị trường đáp ứng một nhu cầu cụ thể (Kuratko, 2005); là quá trình tạo dựng doanh nghiệp và phát triển thông qua cung ứng ra thị trường sản phẩm mới, hoặc tạo giá trị tăng thêm cho sản phẩm hiện tại (Abu-Saifan, 2012). Khởi nghiệp đòi hỏi các nguồn lực quan trọng gồm thời gian, nỗ lực tinh thần, nguồn lực tài chính, chấp nhận rủi ro xã hội để hướng tới các kết quả mong đợi (Asamani và Mensah, 2013). Timmons và Spinelli (2008) cho rằng, khởi nghiệp là một cách tư duy và hành động đặc thù, theo đó người khởi nghiệp chủ động tìm kiếm và nắm bắt cơ hội, tiếp cận và khai thác một cách toàn diện, với một tư duy lãnh đạo.

Các nghiên cứu về khởi nghiệp đã nhận diện một số thuộc tính gắn với cá nhân khởi nghiệp gồm thái độ với khởi nghiệp, cảm nhận về năng lực cá nhân về khởi nghiệp, động lực khởi nghiệp, ý định khởi nghiệp, sự đổi mới, sự chủ động, chấp nhận rủi ro, nhận diện cơ hội v.v… Đây là những thuộc tính quan trọng ảnh hưởng tới việc khởi nghiệp và sự thành công của quá trình khởi nghiệp. 3 thuộc tính quan trọng được nhiều nghiên cứu đề cập gồm thái độ với khởi nghiệp, năng lực cá nhân về khởi nghiệp và động lực khởi nghiệp.

Thái độ với khởi nghiệp

Thái độ là một trạng thái tâm lý được thể hiện qua việc đánh giá một thực thể nào đó tốt hay xấu, tích cực hay không tích cực v.v… (Kreitner và Kinicki, 2009). Thái độ là trạng thái nội tại của một cá nhân, điều phối cảm xúc của cá nhân và quyết định cách thức cá nhân tiếp cận hay phản ứng với tình huống cụ thể (Hajer và Habib, 2013). Mô hình hành vi kế hoạch của Ajzen (1991) chỉ ra cơ chế tác động của thái độ tới hành vi cá nhân.

Theo Bachiri (2016), thái độ khởi nghiệp của sinh viên là cảm nhận của họ về việc trở thành một chủ doanh nghiệp, bao gồm thái độ về việc tạo ra một công ty mới, cảm nhận về tính khả thi và ước muốn cá nhân gắn với việc tạo lập và vận hành công ty mới. Một thái độ tích cực, đi kèm với cảm nhận tốt về tính khả thi và ước muốn khởi lập công ty cao, sẽ dẫn tới việc hình thành hành vi khởi nghiệp. Thái độ khởi nghiệp tác động tới ý định khởi nghiệp của chủ thể, từ đó tác động tới mong muốn tạo dựng một doanh nghiệp và định hướng hành vi hành vi khởi nghiệp.

Năng lực cá nhân về khởi nghiệp

Theo Chen et al. (1998), đó là sự tin tưởng vào năng lực bản thân của cá nhân trong khởi nghiệp. Khái niệm này gần với khái niệm cảm nhận về năng lực chung (General Self-efficacy), được định nghĩa là sự tự tin hay tin tưởng vào bản thân khi thực hiện một công việc cụ thể nào đó. Sự khác biệt nằm ở chỗ một cá nhân có thể cảm nhận năng lực chung cao gắn với các công việc họ có thế mạnh, kinh nghiệm, tuy nhiên cảm nhận năng lực cá nhân về khởi nghiệp của họ có thể không cao do khởi nghiệp là một hoạt động đặc thù, phức tạp, ít được thực hiện lặp đi lặp lại bởi một cá nhân, hoặc nếu có thì thường là ở những bối cảnh mới, hệ lụy để lại trong trường hợp không thành công thường là lớn.

Một số nghiên cứu đã cho thấy  năng lực cá nhân về khởi nghiệp có tác động tới ý định khởi nghiệp (Utamin, 2017). Theo kết quả nghiên cứu, các sinh viên đại học và học viên cao học có cảm nhận năng lực cá nhân về khởi nghiệp cao thì cũng có ý định khởi nghiệp cao, và một số trong số họ thể hiện hành vi khởi nghiệp mạnh mẽ. Các tác giả cũng cho rằng mối quan hệ giữa năng lực cá nhân về khởi nghiệp, ý định khởi nghiệp và hành vi khởi nghiệp có sự khác biệt giữa các bối cảnh kinh tế - xã hội khác nhau.

Động lực khởi nghiệp

Động lực khởi nghiệp thể hiện sự mong muốn, sẵn sàng và thôi thúc thực hiện hoạt động khởi nghiệp, tạo lập công ty mới, yếu tố này cùng với nhận thức về khởi nghiệp được chỉ ra là 2 yếu tố có ảnh hưởng quyết định tới hành động khởi nghiệp (Barba-Sanchez và Atienza-Sahuquillo, 2017). Động lực khởi nghiệp thúc đẩy cá nhân nỗ lực, sáng tạo và tìm ra cách thức để vượt qua rào cản, khó khăn trong quá trình khởi nghiệp và sẵn sàng đầu tư thời gian, năng lượng, và tài chính để xây dựng kế hoạch kinh doanh (Zanakis et al., 2012). Theo Vroom (1964), một cá nhân khởi nghiệp có thể có nhiều động cơ khác nhau (làm giàu, đam mê thử thách và khẳng định mình, tạo dựng hình ảnh xã hội…); các động lực này càng cao, thúc đẩy hành động mạnh mẽ, thì cá nhân đó càng tích cực trong các hoạt động khởi nghiệp.

NLCVL sau khi ra trường

Hillage và Pollard (1998) định nghĩa NLCVL của sinh viên sau khi tốt nghiệp là “năng lực tự tìm được công việc đầu tiên sau khi tốt nghiệp, duy trì công việc và tìm được công việc mới nếu có sự thay đổi công việc hiện tại”. Khái niệm này bao hàm các năng lực cần thiết để được tuyển dụng cho một công việc cụ thể, như: kiến thức, kỹ năng và thái độ gắn với công việc; năng lực thuyết phục nhà tuyển dụng; năng lực quản trị nghề nghiệp;... Theo Glover et al. (2002), NLCVL là khả năng có được các kiến thức và kỹ năng tổng quát có thể ứng dụng và thích ứng vào những điều kiện làm việc khác nhau như thị trường lao động trong nước, ngoài nước, thích ứng hiệu quả với sự thay đổi của môi trường làm việc.

Theo Coetzee (2012), đó là những tố chất và năng lực cần thiết để đảm bảo một sự ổn định, bền vững về việc làm, và do vậy, đòi hỏi sinh viên phải có sự thích ứng trong nhận thức, thái độ và hành vi. Các nghiên cứu chỉ ra các yếu tố hình thành nên NLCVL của sinh viên, gồm: kiến thức và kỹ năng ngành đào tạo; kỹ năng mềm; thực tập và trải nghiệm thực tế; nắm bắt thông tin thị trường lao động; các hoạt động ngoại khóa; và một số năng lực cá nhân như vốn tâm lý và vốn xã hội. NLCVL của sinh viên sau khi tốt nghiệp có thể được đo lường thông qua sự đánh giá của người sử dụng lao động hoặc sự tự cảm nhận của bản thân sinh viên. Cách đo lường thông qua sự cảm nhận của sinh viên hiện được nhiều nghiên cứu sử dụng (Jackson và Wilton, 2016).

2.2. Giả thuyết nghiên cứu

Khi một cá nhân quan tâm tới khởi nghiệp, họ cũng có một nền tảng kiến thức và kỹ năng nhất định để vận hành doanh nghiệp, tổ chức, và khi đó cảm nhận NLCVL của cá nhân đó sẽ cao. Mặt khác, theo O'Leary (2012), kiến thức và kỹ năng khởi nghiệp không chỉ cần thiết cho việc mở một doanh nghiệp mới, mà nó cũng rất quan trọng trong việc dẫn dắt sự thay đổi của một doanh nghiệp, tổ chức đang tồn tại, và các nhà tuyển dụng ngày một coi trọng năng lực khởi nghiệp của ứng viên. Từ các phân tích trên nghiên cứu đưa ra các giả thuyết dưới đây:

H1: Thái độ khởi nghiệp có tác động có ý nghĩa và thuận chiều tới NLCVL của sinh viên.

H2: Năng lực cá nhân về khởi nghiệp có tác động có ý nghĩa và thuận chiều tới NLCVL của sinh viên.

H3: Động lực khởi nghiệp có tác động có ý nghĩa và thuận chiều tới NLCVL của sinh viên.

3. Phương pháp nghiên cứu

Thang đo các biến nghiên cứu được lấy từ các nghiên cứu quá khứ: thang đo Thái độ với khởi nghiệp gồm 6 câu hỏi (Liñán và Chen, 2009; Bachiri, 2016); thang đo năng lực cá nhân về khởi nghiệp gồm 5 câu hỏi (Dương và Tomasz, 2016); thang đo Động lực khởi nghiệp gồm 4 câu hỏi (El-Gohary et al., 2016); và thang đo NLCVL gồm 5 câu hỏi (Jackson và Wilton, 2016). Các câu hỏi được đánh giá trên thang đo likert 6 cấp độ giảm dần mức độ đồng tình từ (6) “Hoàn toàn đồng ý” đến (1) “Hoàn toàn không đồng ý”.

Mẫu nghiên cứu gồm các sinh viên năm cuối ngành CNTT của một số trường đại học tại Hà Nội và một số tỉnh lân cận (Đại học Bách khoa Hà Nội, Đại học Giao thông vận tải, Đại học Công nghiệp Hà Nội, Học viện Bưu chính viễn thông, Đại học Công nghiệp Việt Trì và Đại học Thái Nguyên). Các sinh viên tham gia nghiên cứu được lựa chọn ngẫu nhiên, theo phương pháp thuận tiện. Dữ liệu được thu thập thông qua form servey online trong thời gian từ tháng 9 - 11/2021.

Thang đo được đánh giá bằng phân tích nhân tố khám phá (EFA) và Alpha Cronbach, và các giả thuyết nghiên cứu được kiểm định bằng hồi quy tuyến tính bội (với phương pháp Stepwise).

4. Kết quả nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu thu được gồm 210 quan sát trong đó nữ chiếm 32,4% và nam chiếm 67,6%. Sinh viên đến từ các trường đại học tại Hà Nội chiếm 75,2% so với 24,8% sinh viên đến từ các trường đại học ngoài Hà Nội.

Kết quả phân tích EFA và Alpha Cronbach cho thấy cả 4 biến số đều là đơn nhân tố (phân tích EFA độc lập cho từng biến số; mỗi biến chỉ hình thành 1 nhân tố duy nhất) với phương sai trích đạt trên 50%. Kết quả đánh giá thang đo các biến nghiên cứu được cụ thể trong Bảng 1. Kết quả cho thấy các thang đo biến nghiên cứu đạt yêu cầu về độ tin cậy.

Bảng 1: Kết quả phân tích EFA và Alpha Cronbach

STT

Biến số

Số item giữ lại

Hệ số tải cao nhất/thấp nhất

% phương sai trích

Alpha Cronbach

1.

Thái độ với khởi nghiệp

5/6

0,82 - 0,68

57,9%

0,81

2.

Cảm nhận năng lực khởi nghiệp

5/5

0,77 - 0,64

52,3%

0,77

3.

Động lực khởi nghiệp

4/4

0,88 - 0,60

58,2%

0,74

4.

Cảm nhận khả năng có việc làm

5/5

0,82 - 0,68

57,8%

0,81

Kết quả phân tích hồi quy bội được thể hiện ở Bảng 2 dưới đây:

Bảng 2: Kết quả phân tích hồi quy bội của mô hình nghiên cứu

Model

Unstandardized Coeff.

Standardized Coeff.

t

Sig.

Collinearity Statistics

B

Std. Error

Beta

Tolerance

VIF

(Constant)

Năng lực cá nhân về khởi nghiệp

Động lực khởi nghiệp

Thái độ với khởi nghiệp

-2.793E-17

.063

 

.000

1.000

 

 

.265

.066

.265

4.041

.000

.940

1.064

.201

.066

.201

3.054

.003

.936

1.068

.164

.064

.164

2.566

.011

.994

1.006

Biến phụ thuộc: NLCVL khi tốt nghiệp

Số liệu từ Bảng 2 cho thấy, các hệ số hồi quy có ý nghĩa với p < 0.05. Các chỉ số VIF đều nhỏ hơn 2 cho phép kết luận không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập. Giá trị test ANOVA F = 13,642 với p = 0.000 cho thấy mô hình hồi quy phù hợp với dữ liệu thực tế. Kết quả phân tích hồi quy bội chỉ ra cả 3 biến độc lập (Thái độ với khởi nghiệp, năng lực cá nhân về khởi nghiệp và Động lực khởi nghiệp) đều có tác động có ý nghĩa và thuận chiều lên biến phụ thuộc (NLCVL sau khi tốt nghiệp). Với R2 đạt 0,166, ba biến độc lập trong mô hình cho phép giải thích 16,6% sự biến thiên của biến phụ thuộc.

5. Kết luận

Với kết quả nghiên cứu thu được, cả 3 giả thuyết nghiên cứu được chấp nhận. Tác động tích cực của 3 thuộc tính khởi nghiệp nghiên cứu tới cảm nhận NLCVL sau khi tốt nghiệp được khẳng định với các sinh viên ngành CNTT trong khuôn khổ nghiên cứu này. Kết quả này phù hợp với phân tích trong các nghiên cứu trước đó. Theo Hardy và Noor (2015), khởi nghiệp trong quá trình học đại học sẽ giúp cải thiện cảm nhận NLCVL của sinh viên thông qua việc tạo cho sinh viên kỹ năng tạo sự khác biệt cho bản thân, tạo dựng các mối quan hệ xã hội để tăng cơ hội có việc làm, có kinh nghiệm trong khởi nghiệp và trong thực tiễn công việc.

Như vậy, có thể thấy việc trang bị kiến thức, kỹ năng về khởi nghiệp trong quá trình học đại học là rất hữu ích, không chỉ giúp người học nắm bắt cơ hội khởi nghiệp sau khi tốt nghiệp, hiện đang tiêu chí đầu ra phổ biến và ngày một quan trọng trên thế giới và tại Việt Nam, mà còn giúp nâng cao cảm nhận của họ về NLCVL sau khi tốt nghiệp. Các cơ sở giáo dục đại học về CNTT nên đưa chương trình đào tạo về khởi nghiệp vào chương trình giảng dạy để giúp cải thiện năng lực khởi nghiệp và NLCVL của sinh viên sau khi ra trường. Chương trình đào tạo khởi nghiệp cần kết hợp kiến thức, kỹ năng, cơ hội trải nghiệm khởi nghiệp và các hoạt động bổ trợ khác cho sinh viên (tổ chức các chương trình khởi nghiệp; câu lạc bộ khởi nghiệp; tạo dựng hệ sinh thái khởi nghiệp; tổ chức các buổi chia sẻ, gặp gỡ các điển hình khởi nghiệp thành công,...).

Các hoạt động này sẽ giúp cải thiện thái độ và động lực khởi nghiệp của sinh viên, giúp họ được trải nghiệm và tham gia vào các dự án khởi nghiệp thực sự, từ đó nâng cao năng lực cá nhân về khởi nghiệp. Việc giảng dạy kiến thức khởi nghiệp trong trường đại học được nhiều nghiên cứu chỉ ra là rất cần thiết để hình thành thái độ tích cực và cải thiện ý định khởi nghiệp của sinh viên (Souitaris et al., 2007), nâng cao kiến thức khởi nghiệp, khả năng nhận diện cơ hội và nâng cao năng lực cá nhân về khởi nghiệp (Puni et al., 2018), cải thiện năng lực khởi nghiệp (Lv Y et al., 2021).

Một trong những hạn chế của nghiên cứu là chưa đánh giá sự khác biệt giữa các sinh viên đã tham gia các chương trình đào tạo về khởi nghiệp và những sinh viên chưa tham gia. Cần có thêm các nghiên cứu tương lai về chủ đề này.

Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Quốc gia Hà Nội trong đề tài mã số QG.19.51.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Abu-Saifan S. (2012), Social Entrepreneurship: Definition and Boundaries, Technology Innovation Management Review.
  2. Ajzen I. (1991), The theory of planned behavior, Organizational Behavior and Human Decision Processes, Volume 50, Issue 2, p. 179-211.
  3. Asamani L. and Mensah A.O. (2013), Entrepreneurial Inclination among Ghanaian University Students: The Case of University of Cape Coast, Ghana, European Journal of Business and Management,5, No.19.
  4. Bachiri M. (2016), Les déterminants de l’intention entrepreneuriale des étudiants, quels enseignements pour l’université marocaine ? Management & Avenir, 89(7), pp. 109-127.
  5. Barba-Sánchez V. and Atienza-Sahuquillo C. (2017), Entrepreneurial motivation and self-employment: evidence from expectancy theory, International Entrepreneurship and Management Journal, 13, pp. 1097-1115.
  6. Chen C. C., Greene P. G. and Crick A. (1998), Does entrepreneurial self-efficacy distinguish entrepreneurs from managers? Journal of Business Venturing, 13, 295-316.
  7. Coetzee M. (2012), A framework for developing student graduateness and employability in the economic and management sciences at the University of South Africa, In M. Coetzee et al. (Eds.), Developing student graduateness and employability: Issues, provocations, theory and practical guidelines. Randburg: Knowres Publishing.
  8. Dương D. and Tomasz B. (2016), Entrepreneurial self-efficacy and intention among vietnamese students: a meta-analytic path analysis based on the theory of planned behavior, Procedia Computer Science,159, pp. 2447-2460.
  9. El-Gohary H., Selim H.M., Eid R. (2016), Entrepreneurship Education and Employability of Arab HE Business Students: An Attempt for a Primary Investigation, International Journal of Business and Social Science, 7, No. 2.
  10. Glover D., Law S., and Youngman A. (2002), Graduateness and employability: Student perceptions of the personal outcome of university education, Post-Compulsory Education, 7(3), pp. 293-306.
  11. Hajer H. and Habib A. (2013), Beliefs, Intentional Factors and Entrepreneurial Intention: Empirical Application to the case of the Tunisian Public Civil Servant, Far East Journal of Psychology and Business, Far East Research Centre, vol. 12(1), pp. 1-11.
  12. Hillage J., and Pollard E. (1998), Employability: Developing a framework for policy analysis (Research Brief No 85). London: Department for Education and Employment.
  13. Jackson D., and Wilton N. (2016), Perceived employability among undergraduates and the importance of career self-management, work experience and individual characteristics. Higher Education Research & Development, 36(4), pp. 747-762.
  14. Kreitner and Kinicki (2009), Organisational Behaviour Key Concept and Skills and Best Practices, Publisher, McGraw-Hill, New York.
  15. Kuratko D. F. (2005), The Emergence of Entrepreneurship Education: Development, Trends, and Challenges, Entrepreneurship Theory and Practice, Vol. 29(5), pp. 577-597.
  16. Liñán F. and Chen Y. (2009), Development and cross-cultural application of a specific instrument to measure entrepreneurial intentions, Entrepreneurship Theory and Practice, 33(3), pp 593-617.
  17. Lv Y, Chen Y, Sha Y, Wang J, An L, Chen T, Huang X, Huang Y and Huang L (2021), How Entrepreneurship Education at Universities Influences Entrepreneurial Intention: Mediating Effect Based on Entrepreneurial Competence. Psychol. 12:655868.
  18. Nguyễn Quang Thu, Trần Thế Hoàng, Hà Kiên Tân (2018) Ảnh hưởng nhận thức khởi nghiệp đến hành vi khởi nghiệp của sinh viên Việt Nam: Vai trò ý định mục tiêu và ý định hành động, Tạp chí Khoa học Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, 13(2), pp. 75-90.
  19. O'Leary S. (2012), Impact of Entrepreneurship Teaching in Higher Education on the Employability of Scientists and Engineers, Industry and Higher Education.
  20. Puni A., Anlesinya A. and Korsorku P.D.A. (2018), Entrepreneurial education, self-efficacy and intentions in Sub-Saharan Africa, African Journal of Economic and Management Studies, 9 No. 4, pp. 492-511.
  21. Rahim H.L. and Lajin N.F.M. (2015), Social Entrepreneurship and Graduate Employability, International Academic Research Journal of Social Science, 1(1) 2015, pp. 33-40.
  22. Souitaris V., Zerbinati S., and Al-Lahamc A. (2007), Do entrepreneurship programmes raise entrepreneurial intention of science and engineering students? The effect of learning, inspiration and resources, Journal of Business Venturing, 22 (4), pp. 566-591.
  23. Timmons J. A. and Spinelli S. (2008), New Venture Creation, Entrepreneurship for the 21st Century, McGraw-Hill Higher Education, 8th edition
  24. Utamin, C. W. (2017) Attitude, Subjective Norms, Perceived Behavior, Entrepreneurship Education and Self-Efficacy towards Entrepreneurial Intention University Student in Indonesia, European Research Studies Journal, Vol 20(24), 475-495.
  25. Volkmann C. K. and Audretsch D. B. (2017), Entrepreneurship Education at Universities: Learning from Twenty European Cases, International Studies in Entrepreneurship, Springer, vol. 37.
  26. Vroom, V. H. (1964), Work and motivation, New York: Wiley.
  27. Zanakis S. H., Renko M., and Bullough A. (2012), Nascent entrepreneurs and the transition to entrepreneurship: Why do people start new businesses? Journal of Developmental Entrepreneurship, 17(1), 1-25.

The impact of some entrepreneurial attributes on the employability of final year IT students

 Ph.D Dao Tung

Head, Department of Scientific Management and Development Cooperation

International Francophone Institute, Vietnam National University – Hanoi

ABSTRACT:

This research assessed the impact of some entrepreneurial attributes in information technology (IT) including (i) Attitudes towards entrepreneurship, (ii) Personal entrepreneurial competencies, and (iii) Motivation for entrepreneurship on the employability of graduated students. This research was conducted by analyzing samples of 210 final year IT students in Hanoi and surrounding areas. The research’s results show that all these three entrepreneurial attributes have significant and positive influences on the employability of students. These results re-affirms the importance of training entrepreneurial knowledge and skills for IT students to enhance their employability.

Keywords: entrepreneurship attitude, entrepreneurship self-efficacy, entrepreneurship motivation, employability.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 27, tháng 12 năm 2021]