Những giải pháp giảm thiểu ô nhiễm khí thải từ tàu biển

Việt Nam hiện có trên 1.700 tàu vận tải và khoảng 130.000 tàu cá, tương ứng với lượng nhiên liệu xăng dầu tiêu thụ khoảng gần 4 triệu tấn/năm. Đây chính là nguồn gây ra ô nhiễm cho vùng biển, ven biển

Hiện nay, các nguồn gây ô nhiễm biển rất đa dạng và phức tạp, bao gồm: Các nguồn ô nhiễm do dầu được sử dụng làm nhiên liệu, bôi trơn, thủy lực cho tàu, dầu hàng do tàu vận chuyển; hóa chất lỏng trên tàu. Các loại hàng nguy hiểm như chất nổ, chất phóng xạ, chất cháy, chất độc… vận chuyển bằng tàu; rác thải; nước thải; sơn chống hà sử dụng cho thân tàu. Các vật liệu độc hại dùng để đóng tàu là amiăng, kim loại nặng, hóa chất. Ô nhiễm do các bệnh truyền nhiễm lan truyền qua con đường hàng hải; hoạt động phá dỡ tàu cũ, thăm dò và khai thác dầu khí trên biển. Nhất là khi chất lượng tàu biển không cao, nhiều phương tiện đã quá cũ, lạc hậu, hiệu suất đốt cháy nhiên liệu thấp và chưa có hệ thống xử lý khí thải thì việc phát thải nhiều khí độc như SO2 , CO2 , CO, NO2... là rất lớn.

Ảnh minh họa tình trạng ô nhiễm khí thải từ tàu biển

Ông Janusz Cofala, Trưởng nhóm nghiên cứu thuộc Viện Phân tích các hệ thống ứng dụng ở Áo cho biết: Sự tăng tốc của thương mại quốc tế và số lượng các tàu biển gia tăng ngày càng làm môi trường ô nhiễm hơn. Nước Anh chịu ảnh hưởng nặng nề nhất vì có đường biển dài và cũng là nơi giao thương tấp nập, tàu bè qua lại nhộn nhịp. Nghiên cứu cũng cho thấy, tuổi thọ trung bình của cư dân vùng biển phía Tây của nước Anh sẽ bị giảm đi từ 20 - 30 tháng tính từ năm 2020.

Báo cáo đánh giá tác động của khí thải tàu biển đối với sức khỏe của Liên minh châu Âu (EU) cho thấy, lượng khói thải độc hại từ các loại tàu biển đang giết chết khoảng 39.000 người mỗi năm ở châu Âu, trong đó Anh chịu thiệt hại nặng nề nhất.

Hiện nay, EU đang dự định thành lập các vùng biển có lượng khí thải thấp đầu tiên, giảm thiểu mức độ ô nhiễm từ hàng nghìn chiếc tàu chở hàng lưu chuyển qua các vùng biển mỗi năm. EU sẽ chấp nhận chính phủ các nước hỗ trợ các công ty hàng hải nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn SO2 một cách chặt chẽ. Ủng hộ các giải pháp của EU, Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO) nhất trí sẽ hạn chế hàm lượng SO2 trong nguồn nhiên liệu cho tàu biển,đối với các tàu thuyền đi qua khu vực có kiểm soát khí thải có hiệu lực trong năm 2015.

Trong khi đó, các công ty vận tải biển sẽ phải đối mặt với khả năng đáp ứng phát thải hàm lượng SO2 thấp và chi phí nhiên liệu sạch hơn, khiến cước vận tải hàng hóa đường biển tăng cao. EU đã chấp nhận đề nghị của IMO về giảm hàm lượng lưu huỳnh trong các nhiên liệu biển, với mức giới hạn lưu huỳnh cho tất cả các tàu thuyền sẽ cắt giảm xuống mức 0,5% trong năm 2020 (hiện tại đang là 3,5%). Các giới hạn cho tất cả các tàu ở vùng biển Baltic và Biển Bắc (được gọi là "khí thải khu vực kiểm soát”), sẽ cắt giảm xuống 0,1% từ mức 0,5% vào năm 2015. Thay vì sử dụng nhiên liệu chứa lưu huỳnh thấp, các nhà khai thác tàu biển cũng có thể sử dụng công nghệ xử lý thay thế làm sạch khí thải của tàu thuyền để giảm thiểu ô nhiễm.

Theo số liệu thống kê của Chính phủ Mỹ, các tàu biển là thủ phạm gây ra 2/3 lượng khí thải SO2 trong ngành giao thông vận tải từ năm 2002, việc thiếu các biện pháp kiểm soát sẽ khiến tỷ lệ này có thể lên tới 98% vào năm 2020. Chính vì thế, Chính phủ Mỹ và Canada đã đặt ra những tiêu chuẩn mới về khí thải đối với các tàu biển cỡ lớn. Theo đó, từ năm 2015 trở đi, các tàu biển mới sẽ phải giảm 96% lượng SO2 so với hiện nay. Tương tự, các tàu biển được đóng sau năm 2016 sẽ phải cắt giảm 80% lượng khí thải NO.

Nhằm kiểm soát tốt khí thải từ tàu trong hoạt động hàng hải ở mức độ cho phép, Việt Nam cũng đang thực hiện một số giải pháp như: chỉnh sửa, bổ sung và ban hành một số chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, quy định, quy chuẩn nhà nước cho các tàu cá và tàu vận tải về giảm thiểu phát thải khí thải, đặc biệt khí thải nhà kính, về khoa học công nghệ tàu biển, máy tàu, lò thu gom khí thải. Đối với tàu vận tải, Việt Nam cần sớm xem xét tham gia đầy đủ phụ lục VI - “Các quy định về ngăn ngừa ô nhiễm không khí do tàu gây ra” của Công ước quốc tế MARPOL 73/78 IMO.

Đồng thời xây dựng các bộ chỉ số theo chuẩn mực IMO về thiết kế hiệu quả năng lượng (EEDI), là một chỉ số có thể thẩm định nhờ tính toán các thông số thiết kế tàu. Chỉ số này là một phương tiện giúp các chủ tàu so sánh hiệu quả các bản thiết kế cùng một loại tàu có kích cỡ như nhau của nhiều xưởng đóng tàu khác nhau.

Đồng thời, Việt Nam còn quan tâm tới công tác tổ chức đào tạo nhân lực, nâng cao nhận thức về giảm thiểu khí thải từ tàu biển và biến đổi khí hậu cho các đối tượng liên quan đến hàng hải, thủy sản và kinh tế biển. Đổi mới công nghệ đóng tàu biển theo tiêu chuẩn hàng hải xanh mới, giảm phát thải động cơ - máy tàu, lò đốt rác. Ban hành chính sách đánh thuế, thu phí khí thải tàu biển; hợp tác và trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức môi trường - hàng hải quốc tế trong lĩnh vực khí thải biển.

Nghiên cứu, xây dựng, thiết lập một số vùng “kiểm soát khí thải” hay “đặc biệt” tàu biển tại các khu vực hải cảng gần khu biển, có giá trị đặc biệt về môi trường sinh thái trên vùng biển Việt Nam. Theo đó, tất cả những tàu biển cỡ lớn có lượng khí thải ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn cho phép sẽ hạn chế không được cập cảng, hoặc theo chế độ hoa tiêu đặc biệt. Trước mắt, có thể thiết lập "Vùng kiểm soát khí thải" ở hai khu vực ven biển Quảng Ninh - Hải Phòng và Vũng Tàu - TP. Hồ Chí Minh.