TÓM TẮT:

Bài viết đề cập đến những điểm mạnh, điểm yếu, sự hình thành các mô hình kinh doanh mới của các doanh nghiệp Nhật Bản. Đồng thời, bài viết cũng nêu những ứng phó và định hướng chính sách của Chính phủ Nhật Bản trước làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó đưa ra một vài gợi ý chính sách cho Việt Nam.

Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0, IoT (Internet Vạn vật), Trí tuệ nhân tạo, Big Data.

1. Đặt vấn đề

Theo Klaus Schwab (2017) (người sáng lập, cũng là Chủ tịch điều hành của Diễn đàn kinh tế Thế giới): “Nếu như Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Nhất tận dụng năng lượng hơi nước để cơ giới hóa quá trình sản xuất, cuộc cách mạng lần thứ Hai sử dụng năng lượng điện để đẩy nhanh và tăng cường quá trình sản xuất, cuộc cách mạng lần thứ Ba sử dụng công nghệ thông tin để tự động hóa quá trình sản xuất, thì bây giờ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ Tư (gọi tắt là cách mạng 4.0) - mà biểu hiện của nó là quá trình hợp nhất các công nghệ đang dần xóa nhòa ranh giới giữa các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số và sinh học”.

So với những cuộc cách mạng trước đây, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có tốc độ phát triển nhanh theo cấp số nhân trong kỷ nguyên với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ, cho phép phát huy khả năng của một chiếc điện thoại thông minh trong túi, kết hợp với hệ thống máy tính tốc độ cao, chi phí thấp và các robot thông minh và trí tuệ nhân tạo siêu việt (AI). Tại Nhật Bản, Chính phủ chính thức xem xét Cách mạng 4.0 là một trong những chiến lược phát triển mới quan trọng trong “Cải cách chiến lược phục hưng 2015”. Nhật Bản coi cuộc cách mạng Công nghiệp 4.0 như một cơ hội tốt để tạo ra thị trường và tăng cường khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp nước này như công nghiệp chế tạo, y tế, nông nghiệp, phân phối,…

2. Điểm mạnh và điểm yếu của Nhật Bản trong kỷ nguyên 4.0 và các mô hình kinh doanh của doanh nghiệp Nhật

2.1. Điểm mạnh

Thứ nhất, Nhật Bản có nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo báo cáo của Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp (METI) Nhật Bản, từ nay đến năm 2030, điểm mạnh của ngành công nghiệp chế tạo là nguồn nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản, có kỹ năng kỹ thuật cao, có đủ trình độ đáp ứng cho công nghiệp 4.0. Ngoài ra, các người máy (robots) công nghiệp và các ngành công nghiệp hỗ trợ có khả năng cạnh tranh mạnh mẽ cũng là những thế mạnh của Nhật Bản.

Thứ hai, điểm mạnh trong đổi mới quy trình sản xuất nhưng lại yếu trong đổi mới sản phẩm.

Thứ ba, có sự phối kết hợp một cách hợp lý và thống nhất giữa con người và máy móc để tránh dẫn đến xung đột lẫn nhau đang là yếu tố quan trọng để thúc đẩy quá trình tự động hóa các nhà máy của Nhật Bản1. Quốc gia này có lợi thế trong việc tạo ra sự kết hợp giữa công nghệ truyền thống và công nghệ tiên tiến kỹ thuật cao cùng tồn tại và phát triển. Điều này mang đến sự hài hòa trong môi trường làm việc giữa con người và các robot, không có sự mâu thuẫn, triệt tiêu lẫn nhau. Bên cạnh đó, các mối quan hệ tích cực giữa những người lao động và các doanh nghiệp cũng được xem như là một nhân tố quan trọng để thúc đẩy ứng dụng AI và các nhà máy thông minh (smart factories) vào trong các từng lĩnh vực.

Thứ tư, là quốc gia có trình độ tốt nhất về công nghệ kết nối M2M (Machine to Machine) (là công nghệ dùng để kết nối các máy móc, thiết bị hoặc vật thể với nhau, cho phép chúng trao đổi thông tin và hoạt động mà không cần sự tương tác hoặc can thiệp của con người). M2M là giao tiếp giữa máy móc hoặc thiết bị với một chiếc máy tính từ xa, cho phép máy móc hoạt động một cách riêng biệt, được kết nối thông qua các mạng để từ đó các dữ liệu được tạo ra trong mỗi máy móc, có thể kết hợp, kiểm soát và sử dụng trong thời gian thực (real time).

Thứ năm, điểm mạnh liên quan đến chu kỳ dữ liệu phục vụ cho quá trình sử dụng dữ liệu, thu thập dữ liệu và công nghiệp hóa trong các nhà máy hoặc bảo hiểm y tế. Nhật Bản là quốc gia có các robot và hệ thống cảm biến tốt nhất thế giới, cũng như có một cơ sở dữ liệu phong phú trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong các lĩnh vực kinh doanh, bảo hiểm, y tế và giao thông,... Cũng là quốc gia với các khách hàng có nhiều kinh nghiệm (bởi họ có tỷ lệ sinh thấp và dân số già) trong việc hiểu và đánh giá các sản phẩm chất lượng cao. Ngoài ra, thị phần lớn nhất trong ngành công nghiệp ô tô cũng là những thế mạnh của Nhật Bản.

Thứ sáu, có mức độ phát triển cao về công nghệ viễn thông, cũng như công nghệ trong việc xử lý và phân tích dữ liệu. Cả nước đã thúc đẩy mạnh mẽ về các mạng thông tin liên lạc tốc độ cao, đứng thứ hai thế giới chỉ sau Hàn Quốc.

2.2. Điểm yếu

Một là, Nhật Bản không có nhiều dữ liệu ảo và quy mô của xử lý các dữ liệu lớn là khá hạn chế. Do đó, họ gặp nhiều khó khăn để hình thành một dữ liệu lớn, và họ có năng lực hạn chế trong việc phân tích dữ liệu Trí tuệ nhân tạo AI khi so sánh với của Mỹ.

Hai là, các vấn đề chính sách của Chính phủ khiến cho các doanh nghiệp Nhật Bản gặp khó khăn trong việc hoạt động đầu tư và đổi mới. Mặt khác, những chính sách nới lỏng cho công ty GE (Công ty General Electric của Mỹ) đã tạo ra thách thức không nhỏ cho việc hình thành các loại hình kinh doanh mới trong nước. Chẳng hạn, GE đã bán cổ phần trong khu vực tài chính để cung ứng hơn 1 tỷ USD đầu tư phát triển PREDICS. Vì lý do này, Nhật Bản đã không có một mô hình kinh doanh mới nào - mô hình được chuyển đổi và phát triển từ các công ty kinh doanh mạo hiểm thành tập đoàn công ty lớn, kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực.

Ba là, thiếu nhân sự kỹ thuật cao trong lĩnh vực phần mềm, thực tế cho thấy số lượng nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực phần mềm ít hơn nhiều khi so sánh với nhân sự trong lĩnh vực phần cứng. Ngoài ra, cũng không có một sự kết nối hữu cơ giữa các nhà nghiên cứu và các ngành công nghiệp phần mềm và lĩnh vực trí tuệ nhân tạo.

Bốn là, văn hóa doanh nghiệp và cơ cấu quản trị trong các doanh nghiệp Nhật Bản khó phù hợp để đón nhận sự đổi mới kinh doanh. Điều này là bởi các cấu trúc kinh doanh của doanh nghiệp được chia và kết hợp theo chiều dọc, mang nặng văn hóa truyền thống, phong cách người Nhật. Do đó, dù là một quốc gia có mức độ phát triển tốt nhất về công nghệ, chất lượng và niềm tin, nhưng Nhật Bản lại thiếu tầm nhìn dài hạn, xây dựng con đường phát triển phần mềm; không đủ tài chính để đầu tư thiết bị hoặc gặp phải những rủi ro, thách thức. Bên cạnh đó, phải mất khoảng 10 năm để xây dựng mối liên kết giữa các nhà máy với nhau2.

Năm là, không chú trọng phát triển Platform toàn cầu (nền tảng kết nối cho sự ra đời các hệ điều hành). Hiện nay, các công ty Nhật Bản đang cố gắng tham gia vào Liên hiệp Công nghiệp của Mỹ (USA’s IIC - Industrial Internet Consortium) và Platform của Công nghiệp Đức 4.0. Tuy nhiên, chúng khó có thể cạnh tranh.

2.3. Các mô hình kinh doanh trong một số doanh nghiệp của Nhật Bản trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0

Có khá nhiều mô hình kinh doanh khác nhau trong các ngành công nghiệp Nhật Bản liên quan đến IoT (Internet Vạn vật). Các mô hình kinh doanh IoT bao gồm: Một mô hình giám sát từ xa; Một mô hình kết nối các nhà máy và các sản phẩm; Một mô hình để kết nối các chuỗi cung ứng giữa các nhà máy và hiểu các tình huống trong thời gian thực; Một mô hình để kết nối các thông tin đặt hàng bằng cách số hóa dữ liệu.

Ngày càng có nhiều doanh nghiệp chế tạo của Nhật Bản mở rộng phạm vi kinh doanh không chỉ cung ứng các sản phẩm hàng hóa, mà còn cung cấp các dịch vụ hậu mãi như dịch vụ bảo trì, quản lý và cho thuê. Ví dụ, Công ty Miura (một công ty sản xuất lò hơi) đang cung cấp các dịch vụ sau bán hàng một cách chuyên nghiệp để nắm bắt được các sự cố về lò hơi. Ngoài ra, công ty còn ký một hợp đồng dịch vụ sửa chữa 3 năm với các khách hàng của mình, đó là một hệ thống thu phí dịch vụ trước của khách hàng cho cả 3 năm.

Liên quan đến các doanh nghiệp IoT, sự hợp tác với các doanh nghiệp khác nhau là vô cùng cần thiết và Nhật Bản đang ngày càng đẩy mạnh mô hình liên kết các doanh nghiệp. Ví dụ, Honda và Softbank đã cùng nhau hợp tác phát triển một hệ thống hỗ trợ xe hơi tự lái sử dụng công nghệ Trí tuệ thông minh AI; hay Toyota cũng mở rộng doanh số cho thuê xe tại Mỹ, sau khi đầu tư hàng tỷ Yên vào công ty Uber (là một công ty taxi dựa trên ứng dụng chia sẻ xe có trụ sở tại Mỹ, nó kết nối tài xế - đối tác và hành khách thông qua một ứng dụng điện thoại thông minh)3.

3. Những ứng phó của Nhật Bản trước làn sóng cách mạng công nghiệp 4.0 và một vài định hướng chính sách của Nhật Bản

3.1. Những ứng phó của Nhật Bản

Chính phủ Nhật Bản đang tiếp tục nỗ lực xây dựng các chính sách dài hạn trong bối cảnh cách mạng 4.0. Dựa trên sự hợp tác giữa cơ quan Khởi động cách mạng Robot, Hiệp hội Phát triển IoT và Cơ quan Khởi động chuỗi giá trị công nghiệp (IVI -Industrial Value chain Initiative), Chính phủ đang xây dựng một hệ thống hỗ trợ hợp tác giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước liên quan đến cách mạng 4.0. Và cũng đã hình thành một Hội đồng chiến lược công nghệ AI với tư cách là trung tâm kiểm soát (a control tower) quá trình nghiên cứu AI. Ngoài ra, Chính phủ cũng cho ra mắt Ủy ban Đầu tư Tương lai trực thuộc Văn phòng Thủ tướng Nhật Bản. Ủy ban này sẽ cùng với Hiệp hội cấu trúc Công nghiệp mới thường xuyên có những cuộc thảo luận chính sách liên quan.

Hệ thống thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 của Nhật Bản được nghiên cứu một cách cẩn thận, bao gồm:

Thứ nhất, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành các chiến lược tập trung vào các robot (sự tiến bộ của công nghiệp robot và thúc đẩy sự thay đổi của công nghiệp chế tạo, giao cơ quan Khởi động cách mạng Robot làm đầu mối. Vào tháng 5/2014, trong hội nghị của OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế), Thủ tướng Abe Shinzo đã nhấn mạnh Nhật Bản sẽ thúc đẩy “một cuộc cách mạng công nghiệp mới thông qua các Robot”. Điều này đã được nhắc lại vào tháng 1/2015, Nhật Bản công bố nền tảng của cơ quan Khởi động cách mạng Robot sẽ giúp Nhật dẫn đầu thế giới và nhận thức được sự cần thiết của đổi mới Robot trong kỷ nguyên cua IoT.

Cơ quan Khởi động cách mạng Robot có các thành viên đến từ các Hiệp hội ngành công nghiệp khác nhau như ô tô, nông nghiệp, y tế, cơ sở hạ tầng, các trường đại học, các viện nghiên cứu và các tổ chức đối tác trong khu vực,… Cơ quan Khởi động cách mạng Robot chia thành 3 nhóm công việc chính: Nhóm đổi mới kinh doanh bằng công nghệ IoT; Nhóm thúc đẩy ứng dụng robot và Nhóm đổi mới robot. Cơ quan này có sự hợp tác chặt chẽ không chỉ với các tổ chức trong nước như Hiệp hội Cạnh tranh công nghiệp, khoa học thông minh, Hiệp hội Đổi mới công nghệ và Hiệp hội Cải cách pháp lý, mà còn với các tổ chức nước ngoài như IIT ở Mỹ và Công nghiệp 4.0 ở Đức.

Thứ hai, Hiệp hội Thúc đẩy Internet Vạn vật (IoT) được thành lập vào tháng 10/2015 và được hỗ trợ bởi Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp; Bộ Nội vụ và Truyền thông của Nhật Bản. Có khoảng hơn 2.000 các doanh nghiệp đang tham gia trong Hiệp hội này.

Thứ ba, Cơ quan Khởi động chuỗi giá trị công nghiệp (IVI) trực thuộc khu vực tư nhân cũng được thành lập để thúc đẩy Công nghiệp 4.0 của Nhật Bản. Tổ chức này được thành lập tháng 6/2016 bởi giáo sư Nisioka với mục tiêu là phát triển hơn 60 doanh nghiệp lớn trong ngành công nghiệp chế tạo thông qua công nghệ IoT. Các kịch bản làm việc khác nhau đã được chuẩn bị nhằm đảm bảo thông tin được chia sẻ giữa các dây truyền sản xuất hoặc giữa các nhà máy. Hoạt động kiểm tra, thử nghiệm cũng đã được thực hiện trong lĩnh vực này.

Thứ tư, Nhật Bản nhận thức được Trí thông minh nhân tạo (AI) là công nghệ quan trọng nhất trong kỷ nguyên 4.0. Do vậy, vào tháng 4/2016, Ủy ban chiến lược công nghệ AI đã được Thủ tướng Abe trực tiếp thành lập để thúc đẩy lĩnh vực AI. Ủy ban này chính là trung tâm kiểm soát tối cao, trực tiếp ban hành các chính sách liên quan đến AI và thành viên của Ủy ban đến từ nhân sự trong các Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp, Bộ Nội vụ và Truyền thông, Bộ Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ. Ngoài ra, Ủy ban còn có sự tham gia của các Viện như AIST, RIKEN, NICT,… Ủy ban chính là cầu nối hợp tác giữa Chính phủ với các Học viện, với các ngành công nghiệp và chuẩn bị một lộ trình công nghiệp hóa cho nghiên cứu và phát triển AI.

3.2. Định hướng chính sách của Chính phủ Nhật Bản trước cuộc cách mạng 4.0

Một dự thảo báo cáo có tên gọi “Tầm nhìn tương lai của cấu trúc công nghiệp mới” (Future Vision of Innovative Industrial Structure) được đưa ra bởi Hiệp hội Cơ cấu Công nghiệp tháng 4/2016, mô tả chi tiết, rõ ràng những phản ứng chính sách của Chính phủ Nhật bản nhằm thích ứng với cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Sau đó, Bản báo cáo chính thức đã được công bố vào tháng 3/2017 đã đề cập đến 4 lĩnh vực ưu tiên gồm: Y tế (Dịch vụ y tế, Điều dưỡng); Di động; Công nghiệp chế tạo, logic, nông nghiệp và an ninh; Xã hội thông minh và thành phố thông minh (phát triển nhà ở, năng lượng và làng xã).

Phân chia 4 phần này không có sự khác biệt nhau nhiều, bởi ranh giới giữa các ngành dựa theo chức năng, nhiệm vụ của ngành dần bị xóa nhòa, phân loại các ngành sẽ không còn quan trọng trong tương lai, thay vào đó phân loại giữa các ngành dựa trên nhu cầu của xã hội hay nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, Nhật Bản đang lên một kế hoạch ra mắt “Lộ trình đảo ngược mục tiêu” để miêu tả những tham vọng tương lai của Nhật Bản đến năm 2030 và giải thích những gì cần làm để đạt được tham vọng đó.

4. Một vài gợi ý chính sách cho Việt Nam

Thứ nhất, Chính phủ Việt Nam cần phân tích điểm mạnh, điểm yếu của một số ngành chủ chốt để ứng dụng thí điểm công nghệ 4.0, tập trung nguồn ngân sách để phát triển ngành có nhiều điểm mạnh. Cần học Nhật Bản khi họ đang tập trung vào nghiên cứu, chế tạo và phát triển robot, nâng cao hiệu quả hoạt động thông qua công nghệ Internet Vạn vật (IoT) và Trí tuệ nhân tạo (AI). Điều này có nghĩa Nhật Bản đang phấn đấu tập trung vào tiêu chuẩn hóa quốc tế các platform (nền tảng).

Thứ hai, sẽ là rất cần thiết cho Việt Nam để phát triển các công nghệ và hợp nhất chúng trong các lĩnh vực liên quan đến cách mạng công nghiệp 4.0.  Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần thành lập một cơ quan chính sách, trực tiếp chịu trách nhiệm trước Chính phủ, là cơ quan chỉ đạo toàn diện các chính sách liên quan đến cách mạng 4.0 trong các lĩnh vực khác nhau. Đồng thời có những phản ứng chính sách kịp thời trước những thay đổi của cấu trúc công nghiệp và cấu trúc việc làm trong nền kinh tế. Như Nhật Bản đã làm, họ đã hình thành một trung tâm kiểm soát (a control tower) nhằm nghiên cứu, ban hành các chính sách liên quan đến cách mạng 4.0, thúc đẩy sự gắn kết và hiệu quả.

Nhật Bản cũng ra mắt Ủy ban đầu tư tương lai (Future Investment Committee) trực thuộc Văn phòng Thủ tướng Nhật Bản. Ủy ban này có sự tham gia của các bộ, ngành liên quan phục vụ cho chương trình: “Tầm nhìn cấu trúc công nghiệp mới” (New Industry Structure Vision), mỗi dự thảo chính sách được Ủy ban này xây dựng sẽ được gửi đến các bộ, ngành để thảo luận, góp ý, chỉnh sửa phản hồi đa chiều trước khi ban hành chính sách chính thức. Những điểm này cũng là những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Thứ ba, Nhật Bản đang rất tích cực tham gia tiêu chuẩn hóa quốc tế về IoT liên quan đến cách mạng 4.0. Chính phủ Nhật còn nỗ lực tham gia các Ủy ban Tiêu chuẩn hóa Quốc tế IoT trên thế giới, như mở rộng hợp tác với IIC (công ty hàng đầu về phần mềm của Mỹ), hợp tác với Đức trong công nghệ phần cứng. Hiện nay, tại Việt Nam IoT đã được ứng dụng khá lâu, nhưng chưa được định hình hoàn toàn. Đặc biệt, các chuẩn công nghiệp trong kết nối và bảo mật, các ứng dụng cũng chưa có tầm ảnh hưởng lớn đến xã hội Việt Nam. Một số lĩnh vực được dự báo sẽ ứng dụng IoT một cách phổ biến trong thời gian tới và mang đến những ảnh hưởng sâu rộng vào đời sống xã hội như Giao thông thông minh, y tế, nông nghiệp, bất động sản thông minh,… Do vậy, Chính phủ cần sớm xây dựng hành lang pháp lý theo hướng tiêu chuẩn, quy chuẩn hoá IoT và tham gia hợp tác vào các tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế.

Thứ tư, Việt Nam cần tăng cường mở rộng cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, điển hình là phát triển IoT liên quan đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây là khu vực thường gặp những khó khăn trong việc hiểu tiện ích của IoT. Nhật Bản đã thực hiện các thử nghiệm kết nối các nhà máy trong một cụm công nghiệp các doanh nghiệp vừa và nhỏ (ví dụ Otaku). Cụ thể hơn, kết nối 3-4 doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua Internet để cùng sản xuất, cùng bán hàng trong một quy trình sản xuất - kinh doanh.

Thứ năm, Việt Nam cần tìm kiếm các biện pháp thúc đẩy sử dụng dữ liệu cá nhân để hình thành một mạng lưới dữ liệu lớn (Big data). Các công ty và các tổ chức phải phân biệt được thế nào là dữ liệu cạnh tranh và thế nào là dữ liệu hợp tác để tiêu chuẩn hóa dữ liệu, từ đó ứng dụng vào các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Chính phủ cần phải bảo vệ và bảo mật dữ liệu cá nhân, nỗ lực để loại bỏ các rào cản mang tính hệ thống, đảm bảo đường truyền thông suốt.

Thứ sáu, Việt Nam cần nhìn vào những mặt tích cực các doanh nghiệp mới, các mô hình kinh doanh mới dưới khía cạnh thị trường, khía cạnh việc làm để có thể chủ động ứng phó với những thay đổi do cách mạng 4.0 gây ra.

Thứ bảy, Việt Nam cần tăng cường hơn nữa để phát triển, đào tạo nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp 4.0 trong tương lai gần. Ví dụ, để thúc đẩy phát triển AI, cần có nhiều nhân sự chất lượng phục vụ quá trình nghiên cứu và phát triển các công nghệ cốt lõi như phần mềm thông minh và các mạch bán dẫn thông minh.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

1Diễn đàn chính sách kinh doanh, Japan (2016), Research Report on the Transformation of Japan’s

Manufacturing Industry and the Future Response Brought by IoT (in Japanese), trang 82-83.

2Diễn đàn chính sách kinh doanh, Japan (2016), Research Report on the Transformation of Japan’s

Manufacturing Industry and the Future Response Brought by IoT (in Japanese), trang 77-81.

3Phỏng vấn Takashi Masuda, Giám đốc khoa Kinh tế học công nghiệp, Viện quản trị Toray (28/9/2016).

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Klaus Schwab (2017). The Fourth Industrial Revolution. UK: Penguin Books, ISBN-13: 978-1524758868.
  2. Mok Sakong (2017). The Progress of the Fourth Industrial Revolution in Japan and its implications. KIET Industrial Economic Review, vol. 22, no. 2, 37 - 49.
  3. Mok Sakong (2017), The Response Strategies of the Fourth Industrial Revolution in Japan and its Implications (IKIET Monthly Industrial Economics), 1/2017.
  4. Steve Magness and Brad Stulberg (2017). Peak Performance. USA: Rodale Books, SBN-13: 978-1623367930.

RESPONSES OF JAPAN TOWARDS THE INDUSTRY 4.0

AND POLICY RECOMMENDATIONS FOR VIETNAM

• Master. NGUYEN THANH NAM

Faculty of Banking, Banking Academy

ABSTRACT:

This paper highlights the strengths, the weaknesses and also the establishment of new business models of Japanese firms. In addition, this paper presents the responses and policy directions of Japanese Government towards the Industry 4.0, thereby drawing policy recommendations for Vietnam.

Keywords: Industry 4.0, IoT (Internet of Things), artificial intelligence, big data.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 14, tháng 6 năm 2020]