Đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ - chìa khóa để tỉnh Quảng Ninh đổi mới và phát triển

Nghiên cứu "Đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ - chìa khóa để tỉnh Quảng Ninh đổi mới và phát triển" do TS. Đinh Thị Thanh Tâm (Học viện Báo chí và Tuyên truyền) thực hiện.

Tóm tắt:

Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra nhiều cơ hội, đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức đối với mỗi quốc gia, tổ chức và cá nhân; đã và đang tác động ngày càng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội; tạo ra những thay đổi lớn trên thị trường lao động. Bài viết nghiên cứu nhằm xây dựng, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là khoản đầu tư chiến lược chủ chốt, mang tính đột phá để đáp ứng được những yêu cầu của thời đại. Với tư duy đột phá, tỉnh Quảng Ninh xác định đào tạo nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chính là “chìa khóa” để đổi mới và phát triển toàn diện.

Từ khóa: nguồn nhân lực, khoa học - công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao, tỉnh Quảng Ninh.

1. Đặt vấn đề

Ở Việt Nam, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ngay từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, quyết sách, chiến lược, tư duy, tầm nhìn mới và nhiều giải pháp cụ thể trong đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, đáp ứng yêu cầu của chuyển đổi số, xã hội số hiện nay.

Quảng Ninh là một tỉnh biên giới nằm ở vùng Đông Bắc Tổ quốc, là địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của cả nước. Tỉnh Quảng Ninh là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Nơi đây hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế xã hội quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tận dụng những thế mạnh và điều kiện tự nhiên của địa phương và thực hiện các chiến lược quy hoạch và phát triển nguồn nhân lực đã giúp Quảng Ninh có được những bước tiến vững chắc, nhiều tiềm năng to lớn được phát huy, kinh tế tiếp tục phát triển toàn diện, quy mô và sức cạnh tranh được nâng lên rõ rệt, tăng trưởng kinh tế ở mức cao so với cả nước, cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển tích cực. Xác định khoa học công nghệ là mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Quảng Ninh tập trung vào xây dựng, đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học công nghệ và coi đây là “chìa khóa” cho sự tăng trưởng của tỉnh. 

Lý luận và thực tiễn đã chứng minh, để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội, khoa học và công nghệ là yếu tố then chốt và như vậy, việc phát triển nguồn nhân lực khoa học, công nghệ đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nguồn nhân lực này là tập hợp những người tham gia vào các hoạt động khoa học và công nghệ với các chức năng nghiên cứu, sáng tạo, giảng dạy, quản lý, tác nghiệp. Đây là lực lượng góp phần quyết định tạo nên sự phát triển, tiến bộ của khoa học và công nghệ nói riêng và của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung. Đây là lực lượng tiên phong trong việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến, thực hiện việc ứng dụng có kết quả vào điều kiện Việt Nam, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2. Bối cảnh quốc tế và trong nước tác động đến sự phát triển của nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay

2.1. Bối cảnh quốc tế

  • Yếu tố toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang tác động nhiều mặt đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới, nhiệm vụ mới đối với việc phát triển nguồn nhân lực ở mỗi quốc gia, dân tộc. Do đó, các quốc gia, địa phương phải chuyển mình nhanh chóng và xây dựng kế hoạch, lộ trình cho những tiềm lực lao động đáp ứng yêu cầu trong thay đổi các lĩnh vực nghề nghiệp mới  phù hợp với xu thế thời đại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các quốc gia còn phải hướng đến việc phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ thích ứng với bối cảnh cạnh tranh để phát triển.

Như vậy, tác động của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đối với việc điều chỉnh, lựa chọn chiến lược phát triển của các quốc gia, địa phương trong đó có cả phát triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực khoa học và công nghệ nói riêng là rất mạnh mẽ và sâu sắc. Do đó cần xây dựng, phát triển một thế hệ mới các doanh nhân, đội ngũ trí thức, những người lao động có phẩm chất, đạo đức, có trình độ chuyên môn cao, có tay nghề vững vàng, có năng lực quản lý, sản xuất, kinh doanh để có thể đứng vững, phát triển trong cuộc cạnh tranh trước bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

  • Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 gắn với chuyển đổi số, kinh tế số

Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, Việt Nam đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) với sự thích ứng và chủ động. Bản chất của CMCN 4.0 là sản xuất thông minh nhờ vào tiến bộ của công nghệ số. Nền công nghiệp 4.0 với yếu tố công nghệ chủ yếu sẽ tạo ra những thay đổi lớn về sản xuất kinh doanh, về cung - cầu lao động, lực lượng nguồn nhân lực. Trước bối cảnh đó, các nhà kinh tế và khoa học quốc tế cảnh báo, thị trường lao động sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động, cũng như cơ cấu lao động. Bởi vậy, một đòi hỏi cấp bách là cần nguồn nhân lực mới với những yêu cầu cao về chuyên môn để đáp ứng với sự phát triển của cuộc cách mạng này ở tầm vĩ mô cấp quốc gia cũng như trong mỗi tổ chức, doanh nghiệp. Sự thay đổi nhân lực sẽ xảy ra toàn diện trong xã hội, trên nền kinh tế vĩ mô, cũng như nơi mỗi tổ chức xã hội, mỗi doanh nghiệp hoạt động, đặc biệt đối với những lĩnh vực có liên quan đến công nghệ thông tin, truyền thông hay chịu ảnh hưởng nhiều từ nền tảng công nghệ mới này.

 CMCN 4.0 đang được dự báo sẽ làm thay đổi mạnh mẽ mô hình phát triển kinh tế của các quốc gia từ việc dựa chủ yếu vào tài nguyên và lao động chi phí thấp sang đổi mới và sáng tạo. Xu thế này một lần nữa cho thấy vai trò trọng tâm của nguồn nhân lực khoa học công nghệ chất lượng cao, vì đổi mới, sáng tạo suy đến cùng xuất phát từ nguồn nhân lực.

- Khủng hoảng thế giới do tác động của đại dịch Covid-19, biến đổi khí hậu, chiến tranh thương mại giữa các quốc gia.

Thế giới hiện nay đang đứng trước rất nhiều thách thức đến từ hậu đại dịch Covid-19, già hóa dân số, biến đổi khí hậu, chiến tranh thương mại giữa các cường quốc… Trước tình hình đó, lợi thế cho quốc gia nào có những giải pháp hữu hiệu, cho từng đối tượng phù hợp và kịp thời đúng thời điểm. Việt Nam cũng là quốc gia chịu tác động từ những vấn đề trên, trong đó các địa phương có mức tăng trưởng GRDP cao phải đối mặt với những thách thức lớn để khôi phục sản xuất - kinh doanh, dịch vụ, tạo việc làm nhằm duy trì phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, trong đó phát triển, nâng tầm kỹ năng lao động cho đối tượng lao động thanh niên trẻ thời hậu Covid-19.

2.2. Bối cảnh trong nước

  • Vị thế, tiềm lực của đất nước ngày càng lớn mạnh

Sau gần 40 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ngày càng lớn mạnh: quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế phát triển không ngừng; tình hình chính trị - xã hội, kinh tế vĩ mô ổn định, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội tăng lên; tính tự chủ được cải thiện; năng lực quản trị nhà nước, điều hành phát triển kinh tế - xã hội được nâng cao; uy tín, vị thế đất nước ngày càng được củng cố trên trường quốc tế. Kinh tế không ngừng tăng trưởng, cơ cấu nền kinh tế từng bước đi vào chiều sâu, các yếu tố đầu vào cho nền kinh tế không ngừng nâng cao về chất lượng. Nguồn lao động dồi dào, có khả năng thích nghi tốt với những thay đổi khoa học và công nghệ. Đây là cơ hội lớn cho việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ.

- Hội nhập quốc tế, nhất là trong lĩnh vực khoa học công nghệ ngày một sâu rộng

 Hiện nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang được thực hiện trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức; lấy khoa học công nghệ làm nền tảng, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu; xây dựng cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động hợp lý; phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ tạo ra năng lực cạnh tranh cao, đủ điều kiện tham gia tham gia sâu rộng vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.

  • Đối diện với nhiều khó khăn về kinh tế và xã hội

Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn và thách thức. Nền kinh tế chịu ảnh hưởng mạnh từ biến động của hoạt động sản xuất khu vực đầu tư nước ngoài và một số thị trường lớn; sự cạnh tranh giữa các nước lớn trong môi trường kinh doanh; hậu quả của đại dịch Covid-19 mang tính chất toàn cầu. Khó khăn nội tại của nền kinh tế chậm được khắc phục; năng lực tiếp cận kinh tế số còn hạn chế; các yếu tố nền tảng như thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng cao, công nghệ... còn thấp so với yêu cầu để đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mức độ tham gia của Việt Nam vào các chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực vẫn còn hạn chế và mới chỉ tham gia ở các công đoạn giản đơn. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội rất lớn trong khi đó nguồn vốn nhà nước, vốn ưu đãi và viện trợ đều có xu hướng giảm.

Các vấn đề xã hội vẫn đang gây áp lực lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, như tệ nạn xã hội, già hóa dân số, chênh lệch giàu - nghèo và trình độ phát triển. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn ngày càng nhanh với cường độ mạnh, khó lường, đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 tác động đến mọi mặt đời sống xã hội. Những thách thức về ô nhiễm môi trường, về sử dụng nguồn tài nguyên đang có những tác động nặng nề đến phát triển kinh tế - xã hội. Nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc gia còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên một số địa bàn còn diễn biến phức tạp. Yêu cầu đặt ra không chỉ hóa giải các nguy cơ, thách thức mà còn phải tích cực, chủ động trước thời cơ mới khi cấu trúc kinh tế thế giới, quản trị toàn cầu được định hình lại, phương thức sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng và đời sống xã hội thay đổi sau đại dịch Covid-19.

Như vậy, bối cảnh quốc tế và trong nước có những thuận lợi cơ bản, tạo ra những cơ hội để Quảng Ninh phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở Quảng Ninh trong bối cảnh hiện nay vẫn còn nhiều thách thức nhất định, đòi hỏi phải có những dự báo chính xác để nắm bắt được xu hướng và đề xuất các giải pháp mang tính khả thi.

2. Thuận lợi và khó khăn của tỉnh Quảng Ninh trong xây dựng, đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu mới

*Về thuận lợi

- Quảng Ninh đã dành sự quan tâm đặc biệt đến phát triển nguồn nhân lực.

Nghị quyết 02-NQ/TU ngày 5/2/2016 của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đã xác định, đến năm 2020 Quảng Ninh trở thành tỉnh có cơ cấu kinh tế dịch vụ công nghiệp; dịch vụ trở thành khu vực kinh tế quan trọng hàng đầu, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu GRDP của tỉnh. Đến năm 2030, nền kinh tế Quảng Ninh sẽ là kinh tế dịch vụ - công nghiệp hiện đại với dịch vụ tiên tiến và sản xuất sạch, sản xuất công nghệ cao. Đến năm 2050, Quảng Ninh trở thành vùng đô thị lớn mang tầm vóc quốc tế; là vùng động lực phát triển kinh tế quốc gia với định hướng phát triển du lịch - công nghiệp theo hướng hiện đại, bền vững; là vùng di sản văn hóa, lịch sử quốc tế, di sản và kỳ quan thiên nhiên thế giới. Để hoàn thành các mục tiêu chiến lược, bên cạnh sự quyết tâm chính trị của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, Quảng Ninh đã chủ động nắm bắt cơ hội, tận dụng tối đa các lợi thế, giảm thiểu những tác động tiêu cực của CMCN 4.0. Do vậy, trước tác động của cuộc CMCN 4.0, với mục tiêu chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội, Quảng Ninh sẽ cần có lực lượng với trình độ khoa học kỹ thuật cao để có thể vận hành những nhà máy thông minh, nhà máy số.

Xác định rõ vai trò, vị trí nguồn nhân lực khoa học công nghệ trong phát triển kinh tế - xã hội, Tỉnh đã chú trọng vào lĩnh vực giáo dục. Trong lãnh đạo, chỉ đạo tập trung triển khai các biện pháp đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo hướng tới phát triển toàn diện, đồng bộ. Đó là: tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về quản trị trường học cho các cán bộ quản lý cơ sở giáo dục, tích cực đưa cán bộ tham gia các khóa tập huấn, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hiện đại, đồng bộ để hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học.

Trong đào tạo chất lượng nguồn nhân lực, Quảng Ninh có định hướng cụ thể về đối tượng gắn với nhu cầu, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, chú trọng khả năng vận dụng thực tiễn sau đào tạo; cập nhật kiến thức cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã; tập huấn cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác chuyên môn như công nghệ, y tế, giáo dục, môi trường, nông nghiệp; bồi dưỡng ngoại ngữ (tiếng Anh, tiếng Trung) cho đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác du lịch, cán bộ địa phương biên giới... Đối với những ngành nghề có khả năng tạo sức hút, mang lại nguồn ngân sách lớn cho tỉnh, cần ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm nguồn nhân lực để thực hiện mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ, du lịch, công nghiệp và hội nhập, như ngoại ngữ, du lịch, dịch vụ, cải cách hành chính, quản lý đô thị, tin học…

- Quảng Ninh có nhiều cơ hội hợp tác trong phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ

Với những tiềm lực phát triển lớn, Quảng Ninh cũng đón nhận nhiều cơ hội hợp tác trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học công nghệ. Trong đó, đã ký kết thỏa thuận hợp tác đào tạo với các trường đại học hàng đầu Việt Nam và quốc tế nhằm liên kết đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh, tăng cường đào tạo đối với các ngành, lĩnh vực quản trị kinh doanh, tài chính, ngân hàng, kinh tế, luật kinh doanh, thương mại quốc tế, du lịch, chuyên gia về quản lý các khu kinh tế, khu công nghiệp, đào tạo trình độ sau đại học cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của tỉnh, đào tạo giáo viên của Trường Đại học Hạ Long, đồng thời thu hút nhân tài cho chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh đề ra.

Hiện nay, Quảng Ninh đang phối hợp với Học viện Chính sách và Phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) xây dựng Đề án Phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Với kinh phí dự kiến 1.133 tỷ đồng, thực hiện từ năm 2021 - 2025, từ việc phân tích thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh, học hỏi kinh nghiệm của các địa phương có cùng đặc điểm kinh tế - xã hội và phát triển, Đề án sẽ đề xuất các nhóm giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực của tỉnh về cơ chế chính sách, nâng cao năng lực cơ sở đào tạo, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu nhân lực... Theo đề án, Quảng Ninh dự kiến đào tạo trong nước đối với 62.900 cán bộ, công chức, viên chức tương ứng 1.005 lớp học; đào tạo bồi dưỡng tại tỉnh 750 cán bộ, công chức, viên chức theo hình thức mời chuyên gia, giảng viên nước ngoài giảng dạy; đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài 1.100 cán bộ, công chức, viên chức tương ứng 55 lớp học; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực các ngành kinh tế trọng điểm, dự kiến 5.000 lao động ngành Nông nghiệp, 10.000 lao động ngành Công nghiệp, Thương mại, 5.000 lao động ngành Xây dựng… Bên cạnh đó, việc khởi công xây dựng Trường Đại học FLC với 3 chuyên ngành mũi nhọn là công nghệ cao, du lịch, hàng không… cũng góp phần tạo bước đột phá, mở ra cơ hội giúp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh.

- Điều kiện cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu trong đào tạo nguồn nhân lực khoa học công nghệ

Quảng Ninh đầu tư có trọng điểm vào hệ thống giáo dục, đặc biệt các chương trình bồi dưỡng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hệ thống trường, lớp và các cơ sở giáo dục được đầu tư với trang thiết bị hiện đại, tập trung vào cơ sở thực hành để tăng cường các kỹ năng rèn nghề thích ứng với thị trường lao động.

* Về khó khăn

- Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực khoa học công nghệ còn hạn chế.

Cơ cấu ngành, nghề đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động, chưa có sự gắn kết giữa đào tạo và sử dụng lao động trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Trong công tác đào tạo, sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp nhân lực từ đầu ra của các trường đại học khiến cho việc phát triển nguồn nhân lực còn thụ động. Công tác đào tạo nghề theo phương châm xã hội hóa tuy có nhiều tiến bộ nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, mới chỉ tập trung đào tạo đại trà, ngắn hạn, chưa đủ điều kiện đào tạo lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật cao, chưa đáp ứng kịp yêu cầu thị trường lao động, cơ cấu ngành, nghề đào tạo lao động còn nhiều bất cập với yêu cầu của nền kinh tế và thị trường lao động. Số lao động được giải quyết việc làm hàng năm liên tục tăng nhưng chưa bền vững. Lực lượng lao động trong môi trường công nghiệp có tác phong làm việc chưa chuyên nghiệp, khoa học, còn thụ động và thiếu tinh thần trách nhiệm, sáng tạo trong công việc.

- Nhân lực khoa học và công nghệ tuy có gia tăng về số lượng và chất lượng nhưng vẫn còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

 Thiếu cán bộ đầu ngành, chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực công nghệ trình độ cao cũng là thách thức lớn về nguồn nhân lực. Nhân lực khoa học và công nghệ phân bố không đồng đều, cơ cấu, trình độ chưa hợp lý theo vùng, miền và lĩnh vực hoạt động; phần lớn tập trung ở khu vực Nhà nước, thành thị, ở các khu vực tư nhân, doanh nghiệp và nông thôn còn thấp... Tinh thần hợp tác nghiên cứu và kỹ năng làm việc nhóm của lực lượng khoa học, công nghệ còn hạn chế. Một số ngành, địa phương chưa quan tâm, tranh thủ nguồn nhân lực khoa học từ Trung ương. Chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ cán bộ khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, chưa đồng bộ và hiệu quả chưa cao. Một số công trình nghiên cứu vẫn còn hạn chế về chất lượng, hàm lượng khoa học thấp, tính ứng dụng chưa nhiều và gây lãng phí…

Mặt khác, hiện nay, một bộ phận không nhỏ nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao không trực tiếp làm nghiên cứu, do cơ chế bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay vẫn dựa trên trình độ chuyên môn cao (học hàm, học vị) nên có tình trạng một số cán bộ lãnh đạo tập trung chủ yếu thời gian cho công tác quản lý, điều hành mà ít tham gia trực tiếp các hoạt động nghiên cứu khoa học.

3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ của tỉnh Quảng Ninh trong tình hình mới

- Nâng cao nhận thức, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền; sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, các ngành và hệ thống chính trị đối với phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ.

Cần thống nhất nhận thức trong cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền về vị trí, vai trò quyết định của nguồn nhân lực khoa học và công nghệ đối với sự phát triển bền vững ở địa phương. Cần xác định đây là “chìa khóa” thành công, là bước đột phá trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ đáp ứng yêu cầu của nền công nghiệp số và xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập. Do đó, cần có cơ chế tạo nguồn và có chính sách đãi ngộ để thu hút được nguồn nhân lực sau tốt nghiệp phục vụ cho địa phương. Đặc biệt, có cơ chế chính sách về nhà ở để thu hút lao động khi làm việc tại Quảng Ninh, bao gồm cả nhà ở công nhân, nhà ở xã hội, nhà ở cho người có thu nhập thấp và nhà ở cho nguồn nhân lực chất lượng cao, chuyên gia gắn với các thiết chế văn hóa để đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động làm việc, sinh sống lâu dài tại Quảng Ninh.

- Thường xuyên rà soát, bổ sung, hoàn thiện công tác quy hoạch, chiến lược phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ

Đây là giải pháp có tính chất quyết định, chi phối các giải phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ ở Quảng Ninh, bởi công tác xây dựng quy hoạch, chiến lược tác động trực tiếp, tạo nên “nội lực” để nguồn nhân lực khoa học và công nghệ phát triển. Thực hiện tốt công tác quy hoạch phát triển không chỉ bảo đảm cho nguồn nhân lực khoa học và công nghệ có sự phát triển toàn diện về số lượng, chất lượng, cơ cấu mà còn tạo hành lang pháp lý vững chắc để nguồn nhân lực này yên tâm công tác, cống hiến.

- Giải pháp về tài chính và đầu tư

Một là, phân bổ và sử dụng hợp lý ngân sách tỉnh dành cho phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực hiện các chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội.

Hai là, cần đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính và cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ.

Ba là, đẩy mạnh xã hội hóa để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ.

- Hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ.

Để hợp tác quốc tế trong phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ đạt hiệu quả cần đa dạng hóa đối tác và hình thức hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ, lựa chọn đối tác chiến lược, gắn kết giữa hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ với hợp tác quốc tế về kinh tế. Ban hành chính sách thu hút chuyên gia là người Việt Nam ở nước ngoài và chuyên gia nước ngoài có trình độ cao đến Quảng Ninh tham gia nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn, đảm đương các chức vụ quản lý nghiên cứu khoa học và công nghệ. Tăng cường tối đa quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức khoa học và công nghệ trong hợp tác quốc tế.

Mặt khác, cần xác định rõ đối tác chiến lược trong hợp tác nghiên cứu chung và địa bàn trọng điểm có công nghệ nguồn cần khai thác, chuyển giao. Tăng cường hợp tác giữa các trung tâm nghiên cứu trên địa bàn tỉnh với các tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ nước ngoài. Nghiên cứu hình thành một số trung tâm khoa học và công nghệ hiện đại có liên kết với các tổ chức khoa học tiên tiến nước ngoài. Có cơ chế, chính sách ưu đãi về đầu tư, đất đai, cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính... để tạo đột phá trong thu hút các chuyên gia, nhà khoa học Việt Nam ở nước ngoài, các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài tham gia hoạt động khoa học và công nghệ ở Quảng Ninh.

Để tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế là một trong những trung tâm phát triển năng động, toàn diện của phía Bắc, Quảng Ninh cần đầu tư để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung và nguồn nhân khoa học công nghệ nói riêng. Đây sẽ là “chìa khóa” để Quảng Ninh tăng tốc bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội trước yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay.

 

Tài liệu tham khảo:

  1. Chu Thị Bích Ngọc (2019). Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0. Tạp chí Tài chính điện tử, http://hvcsnd.edu.vn/nghien-cuu-trao-doi/dai-hoc-40/nang-cao-chat-luong-nguon-nhan-luc-viet-nam-trong-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-4-0-4729.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

 

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 22 tháng 10 năm 2023]