Điều tra phòng vệ tăng: Xu thế tất yếu

Những năm gần đây, xuất khẩu luôn được ghi nhận là điểm sáng trong tổng thể bức tranh kinh tế Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam chính thức vượt mốc 500 tỷ USD trong năm 2019 và đạt trên 545 tỷ USD trong năm 2020. Xuất khẩu ghi nhận sự tăng trưởng mạnh về quy mô, từ 176,6 tỷ USD năm 2016 lên 282,7 tỷ USD năm 2020. 

Trong đó, riêng xuất khẩu mặt hàng thép của Việt Nam năm 2020 đạt 9,86 triệu tấn, trị giá gần 5,26 tỷ USD, giá trung bình 533,4 USD/tấn, tăng mạnh gần 48% về lượng, tăng 25% về kim ngạch nhưng giảm 15,5% về giá so với năm 2019; xuất khẩu đến hơn 30 quốc gia và khu vực trên thế giới, trong đó, các thị trường xuất khẩu chính là ASEAN, Trung Quốc, Đài Loan, Hoa Kỳ…

Song, niềm vui tăng trưởng xuất khẩu đi cùng nỗi lo phòng vệ thương mại. Theo số liệu của Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương, tính đến nay, thép vẫn là sản phẩm xuất khẩu thuộc đối tượng điều tra phòng vệ thương mại nhiều nhất, chiếm hơn 40% trong tổng số hơn 200 vụ việc mà Việt Nam phải ứng phó, bỏ xa các mặt hàng tiếp theo là sản phẩm sợi (12%); sản phẩm cao su (trên 6%); máy móc thiết bị (6%);… 

Thép là mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu số vụ việc phòng vệ thương mại mà Việt Nam phải ứng phó tại thị trường ngoài nước
Thép là mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu số vụ việc phòng vệ thương mại mà Việt Nam phải ứng phó tại thị trường ngoài nước

Bộ Công Thương cho rằng, Việt Nam đối mặt với nhiều vụ kiện phòng vệ thương mại, trong đó có mặt hàng thép, là điều tất yếu, không thể tránh khỏi khi tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, do kim ngạch xuất khẩu của ta tăng nhanh. Đây là những vấn đề mà Chính phủ, doanh nghiệp đã lường trước. 

Bên cạnh đó, xu thế gia tăng các vụ việc phòng vệ thương mại còn từ một số nguyên nhân như kinh tế suy thoái, tác động của đại dịch Covid-19, xu thế bảo hộ gia tăng tại một số thị trường. 

“Có thể nêu sự gia tăng điều tra phòng vệ thương mại năm 2020 là một ví dụ điển hình. Năm 2020 là năm xảy ra đại dịch Covid-19, nhiều nước tiến hành phong tỏa, giãn cách diện rộng, hoạt động thẩm tra tại chỗ các doanh nghiệp phải tiến hành trực tuyến thay vì trực tiếp đến doanh nghiệp thẩm tra, tuy nhiên có số lượng vụ việc không những không có dấu hiệu giảm mà còn gia tăng đột biến, lên đến 39 vụ việc, trong đó 16 vụ việc liên quan sản phẩm thép”, đại diện Cục Phòng vệ thương mại chia sẻ.

Nhiều nguyên nhân “hút” sóng phòng vệ

Nhận định về nguyên nhân dẫn đến “guồng quay” này, Cục Phòng vệ thương mại cho hay thép là đầu vào quan trọng của nhiều ngành sản xuất nội địa, nên nhìn chung chính sách của đa số các nước đều cố gắng bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển ngành sản xuất thép trong nước để nâng cao giá trị gia tăng mà nền kinh tế tạo ra và có thêm việc làm cho người lao động. 

Trong khi đó, đây cũng là mặt hàng đa dạng, phong phú nhiều chủng loại, tính ứng dụng rộng rãi, nên khả năng một hoặc một nhóm sản phẩm trong số hàng ngàn chủng loại sản phẩm thép trở thành đối tượng của các vụ kiện là rất cao. Khi các vụ việc phòng vệ thương mại đối với thép tăng nhanh, sản phẩm xuất khẩu cùng chủng loại của Việt Nam lại càng dễ bị các nước chú ý điều tra để tránh hiện tượng lẩn tránh thuế.

Cùng với việc Việt Nam ký kết một loạt các FTA song phương, đa phương, thế hệ mới và mở cửa thị trường, nhiều mặt hàng trong đó có sắt thép sẽ có mức thuế về 0%, dẫn tới các nước tìm các biện pháp khác (ngoài thuế nhập khẩu) nhằm hỗ trợ ngành sản xuất nội địa của mình.

Mặt khác, các nước thường có xu hướng kiện nhiều nước, bao gồm các nước có thị phần xuất khẩu lớn vào nước điều tra, hoặc các nước nghi ngờ có sự chuyển tải hàng hóa nhằm lẩn tránh thuế, hoặc các nước đặt trụ sở công ty mẹ - con,… Việt Nam thường xuyên bị kiện chung với một số nước xuất khẩu thép lớn trên thế giới như Trung Quốc, Ấn Độ… Do đó, khi có sự nghi ngờ, cáo buộc với một trong số các nước nêu trên, cơ quan điều tra nước nhập khẩu thường có xu hướng kiện cả Việt Nam. Ngoài ra, việc Việt Nam đã bị một nước điều tra có thể dẫn tới hiệu ứng Domino, tức là các nước khác cũng tiếp tục kiện Việt Nam với cùng sản phẩm.

Cục Phòng vệ thương mại cũng cho rằng, riêng đối với thép xuất khẩu của Việt Nam, một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến việc sóng phòng vệ không ngừng ập đến là giá thành tương đối cạnh tranh do nhiều yếu tố như chi phí nhân công rẻ, các doanh nghiệp đang dần dần tự sản xuất nguyên liệu đầu vào thép cán nóng… đe dọa lợi nhuận của doanh nghiệp nước sở tại.

Mặc dù trong những năm trước đây sản phẩm thép đã bị điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại nhiều, tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu thép của Việt Nam tiếp tục tăng, sản phẩm thép của Việt Nam tiếp tục tạo uy tín trên nhiều thị trường khác nhau, làm gia tăng nguy cơ bị khiếu kiện. 

Hệ thống sổ sách kế toán của một số doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp thép nói riêng còn chưa chuyên nghiệp, có những điểm chưa tương đồng với chuẩn mực quốc tế, do đó trong quá trình kháng kiện, doanh nghiệp Việt Nam còn gặp nhiều bất lợi. Hơn nữa, một vụ việc bị áp thuế thường sẽ tạo tiền lệ xấu cho các vụ việc sau, thậm chí một số nước sử dụng các quyết định áp thuế của các nước khác đối với một sản phẩm để làm cơ sở khởi xướng, điều tra với cùng sản phẩm đó.

Trên thực tế, nếu như trước đây, doanh nghiệp chưa biết đến hoặc chưa có nhận thức đầy đủ về các vụ việc phòng vệ thương mại, thì trong khoảng 5 năm gần đây, với các nỗ lực của Chính phủ, Hiệp hội thép Việt Nam thì nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp xuất khẩu thép đã tăng lên đáng kể. Nhiều doanh nghiệp thép đã coi việc điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ là một hoạt động tất yếu trong thương mại quốc tế, do đó một số doanh nghiệp đã xây dựng phòng ban, đội ngũ nhân sự chuyên môn hóa cho việc xử lý các vụ việc phòng vệ thương mại.

Dù vậy, không thể phủ nhận, ngành thép Việt vẫn còn hạn chế về khả năng dự đoán, nắm bắt thông tin sớm.

Nhận thức và sự chủ động của doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu thép là yếu tố then chốt trong ứng phó phòng vệ thương mại
Nhận thức và sự chủ động của doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu thép là yếu tố then chốt trong ứng phó phòng vệ thương mại

“Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam ngoài việc phải đối diện với khó khăn do số lượng vụ việc gia tăng còn đang đối diện nhiều khó khăn hơn trong việc xử lý các vụ việc phòng vệ thương mại do các vụ việc ngày càng có tính chất phức tạp hơn, các nước ngày càng đưa ra các quy định nghiêm ngặt hơn như yêu cầu cung cấp thông tin rất chi tiết, hạn chế thời gian trả lời bản câu hỏi, mở rộng điều tra nhiều đối tượng…”, Cục Phòng vệ thương mại nhận định.

Đặc biệt trong các vụ việc điều tra chống bán phá giá, một số vụ việc cơ quan điều tra nước ngoài cáo buộc rằng nền kinh tế Việt Nam chưa hoàn toàn hoạt động theo nguyên tắc thị trường (nền kinh tế thị trường), hay ngành thép chưa vận hành đầy đủ theo cơ chế kinh tế thị trường. Đơn cử, trong vụ việc Canada điều tra chống bán phá giá sản phẩm thép cốt bê tông, cơ quan điều tra nước này điều tra về cáo buộc vấn đề tình hình thị trường đặc biệt trong lĩnh vực thép cốt bê tông khiến cho giá thành thép cốt bê tông bị “bóp méo”. Điều này khiến biên độ bán phá giá bị đẩy lên cao, không phản ánh đúng thực tế hoạt động của doanh nghiệp.

5 giải pháp thiết thực

Trong bối cảnh đó, để nâng cao hiệu quả công tác kháng kiện, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ và Hiệp hội, doanh nghiệp, thậm chí là cả đối tác nhập khẩu. Chính phủ và doanh nghiệp đã và đang đồng hành, cùng xây dựng các giải pháp để ứng phó với tình trạng ấy. 

Cục Phòng vệ thương mại cho rằng có 5 giải pháp mấu chốt giúp Việt Nam phòng ngừa và ứng phó hiệu quả với các vụ kiện phòng vệ thương mại trong tương lai ở cả góc độ quản lý nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp.

Thứ nhất, đối với cơ quan quản lý nhà nước, việc quan trọng là phải tiếp tục gia tăng tuyên truyền phổ biến quy định pháp luật Việt Nam và quốc tế về phòng vệ thương mại. Hiện nay, các doanh nghiệp lớn đều đã có kiến thức về vấn đề này song doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa có hiểu biết nhiều. Cơ quan quản lý nhà nước sẽ chủ động cung cấp thông tin để các doanh nghiệp nâng cao kiến thức, không bị động khi một vụ việc xảy ra. 

Đặc biệt, Bộ Công Thương cũng đang xây dựng hệ thống cảnh báo sớm để theo dõi thông tin, cập nhật số liệu nhằm đưa ra cảnh báo kịp thời cho doanh nghiệp xuất khẩu có giải pháp phòng ngừa vụ việc. Công tác phối hợp giữa các bên liên quan, cơ quan quản lý nhà nước, kể cả hệ thống các cơ quan đại diện ngoại giao của ta ở nước ngoài, với hiệp hội, ngành hàng cũng sẽ được đẩy mạnh.

Tăng cường cảnh báo sớm sẽ là một trong những chìa khóa quan trọng giảm thiểu sức ép phòng vệ lên thép Việt
Tăng cường cảnh báo sớm sẽ là một trong những chìa khóa quan trọng giảm thiểu sức ép phòng vệ lên thép Việt

Thứ hai, trong trường hợp có vụ kiện phòng vệ thương mại xảy ra, điều quan trọng nhất là doanh nghiệp xuất khẩu cần chủ động tham gia, xử lý, hợp tác toàn diện với cơ quan điều tra để tránh bị áp dụng những thông tin bất lợi. Hơn nữa doanh nghiệp cũng cần phối hợp chặt chẽ với Chính phủ để được hỗ trợ kịp thời. 

Trong nhiều vụ việc, đặc biệt là các vụ việc chống trợ cấp, cần có sự hợp tác giữa Cục Phòng vệ thương mại, các bộ ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp để cung cấp thông tin đầy đủ, chuẩn xác cho cơ quan điều tra, đáp ứng đúng quy định của cơ quan điều tra, hợp tác đầy đủ và theo sát từng vụ việc, kịp thời có ý kiến bình luận để bảo vệ doanh nghiệp xuất khẩu, giám sát việc cơ quan điều tra tuân thủ các quy định WTO trong quá trình điều tra để xem xét khả năng khiếu nại ở WTO trong trường hợp cần thiết. 

Thời gian gần đây, trong một số trường hợp, doanh nghiệp đã chủ động cung cấp cho Cục Phòng vệ thương mại thông tin về khả năng bị kiện, từ đó phối hợp với Cục tìm hiểu thông tin chính thức từ các cơ quan liên quan.

Thứ ba, các doanh nghiệp xuất khẩu trong quá trình xuất khẩu phải luôn theo dõi sát thông tin, thường xuyên trao đổi với đối tác nhập khẩu, kể cả là cả những thông tin về rào cản thương mại có nguy cơ áp dụng lên hàng hóa nhập khẩu như rào cản hành chính, rào cản kỹ thuật trong thương mại để nắm bắt thông tin sớm về khả năng bị kiện, vận động sớm để cơ quan điều tra không khởi xướng vụ việc, hoặc đề nghị nhà nhập khẩu bình luận, bày tỏ ý kiến được cơ quan điều tra xem xét….

Thứ tư, doanh nghiệp cũng cần cần đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, tránh quá tập trung vào một thị trường để giảm thiểu rủi ro bị điều tra, áp thuế, đặc biệt khi bị áp thuế cao doanh nghiệp sẽ có thể mất thị trường xuất khẩu.

Thứ năm, các doanh nghiệp xuất khẩu đặc biệt cần nâng cao tính chuyên nghiệp hơn nữa trong hệ thống sổ sách kế toán của các doanh nghiệp, dần tuân thủ chuẩn mực kế toán quốc tế, quản trị hệ thống sổ sách trên phần mềm quản lý hệ thống để tránh sai lệch trong số liệu, đạt hiệu quả kháng kiện cao hơn.

Mặc dù số lượng vụ việc khởi kiện phòng vệ thương mại hiện nay tăng nhanh nhưng việc xử lý, ứng phó đã dần đạt nhiều kết quả tích cực, giúp doanh nghiệp Việt Nam không bị áp thuế hoặc áp thuế thấp, giảm thiểu tác động tiêu cực tới xuất khẩu của ta. Thậm chí trong một số trường hợp, các doanh nghiệp còn tận dụng được mức thuế phòng vệ thương mại thấp để tăng trưởng xuất khẩu, chiếm lĩnh thị trường.

Trong thời gian tới, Bộ Công Thương cho biết sẽ tiếp tục phối các Bộ ngành và Hiệp hội liên quan, trong đó có Hiệp hội Thép để thực hiện nhiệm vụ kháng kiện, tiến hành trao đổi song phương với các cơ quan cùng cấp tại các nước nhập khẩu, yêu cầu các quốc gia tuân thủ quy định của WTO cũng như các điều khoản ký kết trong các FTA khi áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại để góp phần hỗ trợ cho doanh nghiệp Việt Nam ứng phó kịp thời với các vụ kiện phòng vệ thương mại do nước ngoài khởi xướng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho doanh nghiệp trong nước.