Đề xuất tăng thuế xuất khẩu một số mặt hàng vàng

Bộ Tài chính đề xuất tăng thuế xuất khẩu các mặt hàng vàng có hàm lượng vàng dưới 95% từ 0% lên 2% và thống nhất chung 1 mức thuế suất đối với mặt hàng này.

Đây là đề xuất tại dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 57/2020/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định 122/2016/NĐ-CP về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan. Theo đó, dự thảo điều chỉnh mức thuế suất thuế xuất khẩu đối với mặt hàng vàng.

Theo đó, Bộ Tài chính trình Chính phủ thống nhất chung 1 mức thuế suất đối với mặt hàng vàng, không phân biệt theo hàm lượng vàng như hiện nay (tăng thuế xuất khẩu các mặt hàng vàng có hàm lượng vàng dưới 95% từ 0% lên 2%) và gộp dòng theo tên gọi mặt hàng theo đúng Danh mục thuế quan hài hòa ASEAN (AHTN) mà Việt Nam đã ký kết, không chia cụ thể theo hàm lượng vàng để đơn giản hóa Biểu thuế (nội dung cụ thể tại nhóm 71.13 và 71.14 kèm theo dự thảo Nghị định).

Hiện nay, chính sách thuế xuất khẩu mặt hàng vàng là: Mặt hàng đồ trang sức và các bộ phận của đồ trang sức, bằng kim loại quý hoặc kim loại được dát phủ kim loại quý, nhóm 71.13: Mức thuế xuất khẩu là 0%, trừ mặt hàng đồ trang sức và các bộ phận của đồ trang sức bằng vàng có hàm lượng vàng từ 95% trở lên (thuộc mã hàng 7113.19.10.10, 7113.19.90.10) có mức thuế xuất khẩu là 2%.

xuất khẩu vàng
 Bộ Tài chính trình Chính phủ thống nhất chung 1 mức thuế suất đối với mặt hàng vàng, không phân biệt theo hàm lượng vàng như hiện nay

Mặt hàng đồ kỹ nghệ vàng hoặc bạc và các bộ phận của đồ kỹ nghệ vàng bạc, bằng kim loại quý hoặc kim loại dát phủ kim loại quý, nhóm 71.14: Thuế xuất khẩu của nhóm này là 0%, trừ mặt hàng đồ kỹ nghệ và các bộ phận rời đồ kỹ nghệ bằng vàng có hàm lượng vàng từ 95% trở lên (thuộc mã hàng 7114.19.00.10) thuế xuất khẩu là 2%.

Các công ty không được phép xuất khẩu vàng nguyên liệu, chỉ được xuất khẩu vàng mỹ nghệ, vàng trang sức theo Giấy phép đăng ký kinh doanh (Vàng, trang sức, mỹ nghệ là các sản phẩm vàng có hàm lượng vàng từ 8 kara trở lên, đã qua gia công chế tác để phục vụ nhu cầu trang trí, mỹ thuật). Các quy định hiện hành không nêu cụ thể về các điều kiện hoặc tiêu chuẩn của vàng mỹ nghệ xuất khẩu nên việc xác định phân loại để tính thuế xuất khẩu mặt hàng này trên thực tế gặp nhiều khó khăn. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu chủ yếu khai báo mặt hàng xuất khẩu là vàng mỹ nghệ các loại, hàm lượng vàng dưới 95%, mã hàng 7114.19.00.90, thuế xuất khẩu là 0%.

Trong quá trình thực hiện thời gian vừa qua, theo báo cáo của cơ quan hải quan, tiêu chuẩn giữa các mặt hàng có thuế suất 0% và 2% rất khó phân biệt nên việc tính thuế đều căn cứ theo khai báo của doanh nghiệp, cơ quan hải quan không có đủ cơ sở để kiểm tra. Các công ty thực hiện giám định chất lượng vàng trước khi xuất khẩu đều thể hiện hàm lượng vàng dưới 95%, các chứng từ giám định lại của đối tác nước ngoài đều dưới 95%.

Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu (KNXK) mặt hàng đá quý, kim loại quý và sản phẩm năm 2019 là 2,1 tỷ USD (tăng 231,2% so với cùng kỳ năm 2018) và năm 2020 là 2,6 tỷ USD, KNXK tập trung chủ yếu mặt hàng đồ kỹ nghệ và các bộ phận của đồ kỹ nghệ bằng vàng, đã hoặc chưa mạ hoặc dát phủ kim loại quý, có hàm lượng vàng dưới 95%, thuộc mã hàng 7114.19.00.90 (năm 2020 khoảng 2,1 tỷ USD). Năm 2020, có 469 doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng vàng (gồm ngọc trai, đá quý, đá bán quý và các sản phẩm của chúng; đồ trang sức làm bằng chất liệu khác; tiền kim loại).

Đăng Huy