Du lịch và công tác bảo tồn di sản văn hóa Khmer Nam bộ tại Trà Vinh - Bài học kinh nghiệm từ các quốc gia

ThS. NGUYỄN NGỌC DIỆP (Trường Đại học Công nghệ Đồng Nai), CAO THỊ THẮM (Trường Đại học Công nghệ Đồng Nai) và CHÂU MINH TUẤN (Trường Đại học Trà Vinh)

 

TÓM TẮT:

Di sản văn hóa là những sản phẩm vật chất và tinh thần có ý nghĩa lịch sử, văn hóa và dân tộc học. Việc bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa là vấn đề quan trọng trong xu hướng phát triển của xã hội hiện đại. Một trong các cách làm được nhiều quốc gia lựa chọn và đem lại kết quả cao trong công tác bảo tồn di sản văn hóa là “làm du lịch”. Tuy nhiên, các đơn vị và cá nhân làm du lịch của tỉnh Trà Vinh cần học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác, bên cạnh đó các đơn vị cần phối hợp cùng nhau để phát triển và bảo tồn di sản văn hóa một cách khoa học và bền vững. Bài viết phân tích du lịch và công tác bảo tồn di sản văn hóa Khmer Nam bộ tại Trà Vinh.

Từ khóa: Du lịch Khmer Trà Vinh, kinh nghiệm du lịch văn hóa, kinh nghiệm bảo tồn di sản văn hóa.

1. Văn hóa Khmer Nam bộ và hoạt động du lịch tại Trà Vinh

Kiến trúc Chùa Khmer và Phật giáo Tiểu thừa: Tính đến năm 2017, toàn tỉnh Trà Vinh có 142 ngôi chùa, số chùa được khách đến tham quan khá ít, gồm: chùa Âng, chùa Hang, chùa Nodol, Vàm Rây và một vài chùa lớn tại các huyện. Các ngôi chùa ở đây vẫn chưa được xem là điểm du lịch do hoạt động phục vụ khách du lịch chủ yếu là tham quan, chụp ảnh. Đối tượng chủ yếu là người dân địa phương, khách vãng lai trong và ngoài tỉnh lân cận, số ít từ Thành phố Hồ Chí Minh và khách nước ngoài.

Hoạt động biểu diễn văn hóa nghệ thuật (các điệu lâm thôn, răm vông, xaravan, Dù kê, Dì kê, Rô băm, múa tôn giáo,…). Các hoạt động biểu diễn văn hóa nghệ thuật Khmer Nam bộ, gồm: Hệ thống chùa Nam tông Khmer tại các phum sóc (mỗi phum sóc của người Khmer sinh sống có một chùa) biểu diễn trong các lễ hội hoặc sự kiện lớn của phum sóc. Tuy nhiên, các chương trình chỉ dừng lại ở các tiết mục ca - hát, múa dân tộc và múa chằn,… kết hợp với trò chơi dân gian; Đoàn Nghệ thuật Khmer Ánh Bình Minh (tại khóm 9, phường 7, thành phố Trà Vinh) và một số đội văn nghệ của các phum sóc hoặc các huyện biểu diễn tại các Hội diễn văn nghệ quần chúng Khmer, lễ hội, sự kiện hoặc tham gia lưu diễn trong và ngoài tỉnh; và đội văn nghệ của Khoa Ngôn ngữ - Văn hóa - Nghệ thuật Khmer Nam bộ thuộc Trường Đại học Trà Vinh biểu diễn tại các Hội diễn văn nghệ quần chúng Khmer, lễ hội, sự kiện của Nhà Trường.

Nghề và làng nghề: Nghề dệt chiếu Cà Hom - Bến Bạ, làm cốm dẹp Ba So, làm bánh tét Trà Cuôn. Thực trạng chung cho các làng nghề ở Trà Vinh nói riêng và Đồng bằng sông Cửu Long nói chung, đang bị mai một chỉ ít hộ dân làm thủ công truyền thống, còn lại hầu hết đã bỏ nghề hoặc bị “máy móc hóa”. Để tham gia vào công tác đón khách, các hộ dân cần được tập huấn và triển khai kinh nghiệm làm du lịch, kiến thức về giao tiếp và kinh doanh hàng lưu niệm.

Ẩm thực: Bánh tét cốm dẹp, cốm dẹp, bánh tét Trà Cuôn, bún nước lèo, các loại cá khô, canh xiêm lo, các món bánh (bánh ống, bánh dứa). Về đặc sản địa phương như: bánh tét Trà Cuôn, cốm dẹp,… được đóng gói hút chân không, theo quy chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và bày bán ở các cửa hàng, siêu thị hay đưa sang nước ngoài. Riêng các món ăn như canh xiêm lo, bún nước lèo, các món bánh quà vặt thì Trà Vinh vẫn chưa có khu quy hoạch riêng dành cho các sản phẩm đặc thù này. Hàng quán kinh doanh truyền thống của người dân, bị hạn chế về thời gian hoạt động và khác biệt về khẩu vị, đặc trưng nguyên liệu chế biến nên khá kén khách ăn, đặc biệt là khách nước ngoài.

det chieu
Nghề dệt chiếu Cà Hom - Bến Bạ

Phong tục tập quán và sinh hoạt nơi cư trú: Toàn tỉnh Trà Vinh có duy nhất homestay của gia đình Khmer là Sươn sia homestay (huyện Cầu Kè). Homestay có 5 phòng, đón tối đa 12 - 15 khách lưu trú qua đêm. Hoạt động đón và nhận khách nước ngoài (Pháp và Châu Âu) ở và sinh hoạt tại nhà mang lại nguồn thu khá lớn cho gia đình. Tuy nhiên, mô hình làm du lịch này vẫn chưa được nhân rộng đến các hộ dân Khmer khác.

2. Kinh nghiệm bảo tồn di sản văn hóa thông qua hoạt động du lịch

2.1. Kinh nghiệm của ngành du lịch Trung Quốc

Cố Cung: quãng đường từ cổng vào đến cổng ra là 7 km, không sử dụng bất cứ một phương tiện giao thông nào. Tại các cung chỉ cho khách đứng ngoài nhìn vào nhằm tránh hư hại di tích. Về số lượng khách tham quan Tử Cấm Thành được kiểm soát để giảm thiểu tác động tiêu cực đến di sản. Ban quản lý Nhà cổ chịu trách nhiệm bảo vệ, quản lý và khai thác, trên nguyên tắc sử dụng kết hợp với bảo vệ, thống nhất lợi ích xã hội, môi trường và kinh tế, đảm bảo tính bền vững (Nguyễn Thị Thống Nhất, 2016).

Di Hòa Viên: Khi trùng tu đều sử dụng vật liệu phù hợp với thiết kế gốc, nguồn vốn đầu tư bảo tồn chủ yếu từ tiền bán vé đối với các công trình mức độ nhỏ, mức độ lớn được thực hiện thông qua các dự án của các tổ chức có thẩm quyền và thực hiện bởi ngân sách nhà nước. Nhân viên chủ yếu là người địa phương, 30% lực lượng hướng dẫn viên, đội ngũ này luôn được bổ sung, cập nhật kiến thức để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Người dân được bán hàng trong khu du lịch và bán đảm bảo chất lượng hàng hóa, không được chèo kéo, ép khách mua hàng. Nếu không thực hiện theo quy định sẽ bị phạt hoặc cấm kinh doanh, bị treo biển vàng trước cửa hàng (Nguyễn Thị Thống Nhất, 2016).

di hoa vien

Di Hòa Viên được đánh giá là hoa viên độc nhất vô nhị trên thế giới

2.2. Kinh nghiệm của ngành du lịch Thái Lan

 Di sản văn hóa thế giới - Thành phố lịch sử Ayutthaya (thành phố cổ khôi phục từ phế tích nhưng vẫn giữ được nguyên trạng của di sản): Việc trùng tu được quan tâm đúng mức và sử dụng nguồn ngân sách từ chính phủ. Môi trường được quan tâm bảo vệ, du khách chỉ được phép sử dụng phương tiện thô sơ đi lại trong khu di sản. Hoạt động truyền thông được chú trọng, tăng cường nhận thức của cộng đồng.

Từng loại tài nguyên được xếp hạng theo 5 mức dựa vào tiềm năng phát triển du lịch, mức tài nguyên có tiềm năng nhất và ít tiềm năng nhất. Dựa trên các chỉ số: số lượng khách, tài nguyên, trang thiết bị phục vụ cho du khách như lưu trú, nhà hàng,... Các chính sách phát triển và xúc tiến du lịch, chú trọng đến bảo tồn và phục hồi văn hóa, tài nguyên song song với việc bảo vệ môi trường, ưu tiên phát triển du lịch bền vững (Nguyễn Thị Thống Nhất, 2016).

Yếu tố góp phần tạo nên thành công cho du lịch Thái Lan chính nhờ công tác quảng bá thông qua kênh báo chí (tổ chức các tour farmtrip), truyền thông đại chúng, nghiên cứu văn hóa của các đối tượng khách tiềm năng. Ngoài ra, công tác bảo tồn được coi trọng: giữ truyền thống địa phương (tiếng nói, trang phục, món ăn và nghề truyền thống), sản phẩm quảng bá du lịch đều thể hiện đặc trưng riêng vốn có, đặc biệt các tour du lịch tập trung vào các hoạt động trải nghiệm văn hóa cho từng du khách (Đỗ Thị Hoàng Hà, 2015).

thai lan
Yếu tố góp phần tạo nên thành công cho du lịch Thái Lan chính là nhờ công tác quảng bá

2.3. Kinh nghiệm của ngành du lịch Hàn Quốc

Cung Changdeokgung (một trong năm cung vĩ đại được vua của Triều Tiên xây dựng): chú trọng đến hoạt động truyền thông, giáo dục để tăng cường nhận thức của cộng đồng. Đưa ra các quy định về thời gian hoạt động (mở cửa các ngày trong tuần, trừ thứ hai) và hạn chế số người tham quan trong một lượt. (Nguyễn Thị Thống Nhất, 2016).

Chính phủ lập các cơ quan nhà nước nhằm thực thi, thu thập các thông tin và chịu trách nhiệm về phát triển văn hóa và du lịch. Ngoài ra, Hàn Quốc còn có Luật Xúc tiến Du lịch năm 1961. Thông qua các bộ phim truyền hình, ca nhạc để quảng bá di sản, điểm đến, món ăn và những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể truyền thống. Bên cạnh đó, đăng cai tổ chức nhiều sự kiện tầm cỡ quốc tế và khu vực: Worldcup 2002, Festival Film Fusan,…

Chính phủ hợp tác với các doanh nghiệp Samsung, LG để phát triển hệ thống thông tin; khuyến khích công dân tham gia vào các chương trình giáo dục văn hóa và hoạt động để thúc đẩy chất lượng của những trải nghiệm văn hóa. Dành một tỷ lệ vốn ngân sách nhà nước tương đối cho lĩnh vực du lịch và văn hóa. Chính quyền địa phương chú trọng đầu tư trong phạm vi địa phương để bảo vệ di sản, phát triển văn hóa bản địa và tổ chức các lễ hội để thu hút khách tham quan. (Đỗ Thị Hoàng Hà, 2015).

Cung Changdeokgung
Cung điện Changdeokgung - Đông cung tráng lệ của Hàn Quốc

2.4. Kinh nghiệm của ngành du lịch Campuchia

Khu đền Angkor - quần thể văn hóa nổi tiếng nhất của Campuchia, không có nạn chèo kéo, ăn xin, chặt chém du khách. Người bán hàng rong được bố trí một khu vực nhất định, người ăn xin được hướng dẫn và giúp đỡ để trở thành các nhạc công chơi đàn và các nhạc phẩm của các quốc gia tại một khu. Hàng hóa được niêm yết bằng USD, Ria hoặc Đồng. Đặc biệt, khách hàng có thể trả giá thoải mái với tiêu chí “thuận mua vừa bán”. Campuchia chỉ có mỗi cao nguyên Thansur Bokor là phức hợp nghỉ dưỡng và giải trí cao cấp nhưng giá rẻ hay Bokor sang trọng, vẫn cho dân và khách lẻ vào tham quan mà không hề thu phí. Đến Siem Reap, vé ăn buffet và xem ca múa cung đình Khmer có giá rẻ như một bữa ăn thường ở Việt Nam.

Thành phố Phnom Penh, Siem Riep và Sihanoukville được Campuchia quy hoạch để phát triển du lịch văn hóa. Do đó, khách sạn quanh khu Angkor ở Siem Riep không được cao quá 3 tầng, bất kể đó là 4 hay 5 sao. Tất cả đều được quy hoạch tổng thể và tuân thủ chặt chẽ quy chuẩn về kiến trúc, chỉ giới xây dựng. Các tuyến phố cổ trong khu vực bảo tồn và nhà phải sơn cùng một màu.

Song song đó, 10 hòn đảo trong vịnh Sihanoukville được các doanh nghiệp lớn của Mỹ, Hong Kong thuê để phát triển du lịch. Tuy nhiên, Chính phủ ra điều kiện, nhà đầu tư chỉ được làm hồi sinh Sihanoukville - điểm nghỉ dưỡng cao cấp của các quan chức thuộc địa Pháp hồi cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX chứ không được biến Sihanoukville thành một thành phố mới.

Từ năm 2003, Campuchia đưa ra quy định nghiêm ngặt đối với lượng khách vào đền Angkor Wat tối đa 300 khách mỗi lượt và thời gian tham quan tối đa 2 giờ đồng hồ.

Giá vé tham quan, dịch vụ khách sạn, nhà hàng, hướng dẫn viên,… không thay đổi hoặc giảm nhưng chất lượng không giảm. Vé chỉ bán cho khách quốc tế còn nội địa được miễn phí. Họ quan niệm rằng, di sản là của cha ông để lại và con cháu được quyền thụ hưởng bình đẳng và được biểu biết về những gì cha ông đã làm nên. Với khách quốc tế, giá vé được phân định theo thời gian tham quan: 1 ngày là 20 USD, 2 ngày là 40 USD, 3 ngày là 60 USD và 60 USD cũng là mức giá tối đa áp dụng cho cả tuần hay cả tháng. Mức giá này thể hiện: nếu bạn yêu Angkor đến mức thăm tới 3 ngày chưa chán thì bạn được miễn phí cho tất cả những ngày tham quan còn lại. Cách làm này không chỉ tạo tâm lý được tiếp đón của du khách, mà còn kích thích du khách ham muốn khám phá, tìm hiểu sâu hơn.

 Chính sách quảng bá, xúc tiến hướng tới các tỉnh thành trọng điểm, nhóm khách quan trọng; cải thiện hệ thống đường sá, phát triển nhiều điểm du lịch sinh thái; đơn giản hóa thủ tục xuất nhập cảnh như cấp visa ngay tại các cửa khẩu, sân bay, miễn visa cho một số quốc gia; bố trí cảnh sát du lịch tại tất cả các điểm du lịch.

campuchia
Đền Angkor Wat là địa điểm du lịch nổi tiếng của Campuchia

3. Bài học kinh nghiệm cho công tác bảo tồn di sản văn hóa Khmer Nam bộ tại Trà Vinh

Cách làm du lịch của Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc và Campuchia nói chung và du lịch Trà Vinh nói riêng, để rút ra bài học kinh nghiệm cho hoạt động quản lý và kinh doanh du lịch văn hóa:

Thứ nhất, Nhà nước ban hành hệ thống pháp luật cho ngành du lịch để chuẩn hóa các hoạt động du lịch bằng hệ thống nguyên tắc, tiêu chuẩn, khung pháp lý và quy hoạch các vùng và địa phương; tạo điều kiện thuận lợi trong việc khai thác, bảo vệ và tôn tạo các tài nguyên du lịch.

Thứ hai, thực hiện phân loại, đánh giá, xếp hạng các tài nguyên; và phân công trách nhiệm cho cơ quan chịu trách nhiệm chính trong việc khai thác và tôn tạo.

Thứ ba, nâng cao nhận thức của cộng đồng và khách du lịch về di sản; chú trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

 Thứ tư, nhà làm du lịch cần xây dựng chiến lược maketing; liên kết giữa du lịch và các ngành khác, hợp tác quốc tế về du lịch với các nước trong khu vực và thế giới. Mặc khác, cần sáng tạo, táo bạo và chuyên nghiệp trong công tác quảng bá du lịch.

Thứ năm, sử dụng doanh thu từ việc bán vé tham quan cho việc giữ gìn, tôn tạo và bảo vệ các di sản, tài nguyên. Có chính sách bán vé phù hợp với từng đối tượng khách tham quan.

Thứ sáu, ban hành nội quy về việc hạn chế sử dụng phương tiện và số người trong 1 lượt tham quan trong khu di sản.

Thứ bảy, thành lập đội ngũ “cảnh sát du lịch” nhằm hỗ trợ và đảm bảo an toàn cho khách du lịch.

Kinh nghiệm cuối cùng và quan trọng nhất là tôn trọng và bảo tồn các giá trị văn hóa, cộng đồng cùng hành động vì mục tiêu phát triển du lịch bền vững.

tra vinh
Lễ hội Ok Om Bok 

4. Đề xuất và kiến nghị cho hoạt động du lịch văn hóa Khmer Nam bộ tại Trà Vinh

4.1. Tập trung xây dựng và triển khai phục vụ du khách thí điểm một số sản phẩm du lịch văn hóa Khmer hoàn chỉnh

Du lịch Trà Vinh nói riêng và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nói chung, sản phẩm du lịch đang được chào bán và sử dụng dưới dạng riêng lẻ. Do vậy, sản phẩm nên được bán dưới hình thức các gói dịch vụ (combo sản phẩm) tìm hiểu về văn hóa Khmer Trà Vinh. Khi khách đến bất kỳ một điểm du lịch nào tại Trà Vinh sẽ được giới thiệu và lựa chọn gói dịch vụ và hỗ trợ tư vấn các thông tin du lịch khác. Hoặc du khách có thể đặt các gói dịch vụ thông qua website của công ty lữ hành, Trung tâm Xúc tiến du lịch Trà Vinh. Tác giả đề nghị thí điểm 5 gói dịch vụ. 

Bảng 1. Gói dịch vụ du lịch văn hóa Khmer Nam bộ tại Trà Vinh

goi_dich_vu_du_lich_van_hoa_khmer_nam_bo_tai_tra_vinh Nguồn: Nguyễn Ngọc Diệp, 2018

Trường hợp du khách không chọn du lịch theo gói dịch vụ có thể chọn hình thức sử dụng dịch vụ tự chọn. Cụ thể, du khách chọn từng dịch vụ/sản phẩm du lịch riêng lẻ với giá bán lẻ, nhưng khi đăng ký trên 3 dịch vụ sẽ được giảm %/combo sản phẩm hay miễn phí xe đưa đón, bốc thăm quà tặng,… Việc này giúp khách không bỏ lỡ sản phẩm du lịch hấp dẫn, giúp kích cầu du lịch.

4.2. Quy hoạch và thực hiện kế hoạch đầu tư khai thác du lịch văn hóa Khmer tại Trà Vinh theo từng giai đoạn cụ thể với sự tham gia của xã hội và chính quyền địa phương

Nhà quy hoạch và làm du lịch tuân thủ nghiêm túc nguyên tắc phát triển du lịch bền vững. Loại hình du lịch văn hóa với nhiều vấn đề nhạy cảm và khó làm du lịch, vì vậy, việc sử dụng hiệu quả và bền vững là vấn đề cho đội ngũ làm du lịch tỉnh Trà Vinh và Sóc Trăng.

Để đạt mục tiêu phát triển du lịch văn hóa Khmer bền vững, Trà Vinh và Sóc Trăng cần hợp tác trao đổi, học hỏi kinh nghiệm tìm ra điểm khác biệt của cộng đồng người dân Khmer của hai địa phương. Cùng xây dựng thương hiệu “du lịch văn hóa Khmer” riêng biệt của địa phương mình, hỗ trợ, hợp tác và cùng phát triển; đoàn kết là sức mạnh từ thế cạnh tranh thành thế cả hai cùng phát triển (chiến lược kinh doanh “win - win”).

Trong quá trình khai thác, các đơn vị kinh doanh du lịch cần tôn trọng nền văn hóa bản địa, đặc trưng truyền thống của tộc người Khmer nhằm thực hiện tốt hoạt động khai thác đi đôi với bảo vệ. Du lịch văn hóa là cầu nối giữa du khách và cộng đồng địa phương, nâng tầm văn hóa tộc người bản địa, tạo sức hấp dẫn giữ chân du khách. Tránh việc “pha trộn văn hóa” hoặc “thương mại hóa văn hóa Khmer”, làm mai một và mất đi sự trong sáng của nền văn hóa dân tộc.

Tạo chính sách thông thoáng và hỗ trợ doanh nghiệp, tạo đà cho sự đầu tư khai thác của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Qua phỏng vấn, trao đổi và tìm hiểu của tác giả, đa phần các doanh nghiệp ngại đầu tư vào du lịch Trà Vinh nói chung và du lịch văn hóa Khmer nói riêng, vì Trà Vinh chưa định hướng đầu tư kinh doanh du lịch rõ ràng, việc hỗ trợ chính sách cho doanh nghiệp còn yếu. Mặt khác, quy hoạch và kế hoạch khai thác du lịch của tỉnh chỉ trên văn bản, chưa đi vào thực tế và mời gọi đầu tư đại trà. Trung tâm Xúc tiến du lịch và Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần xác định đơn vị nào có khả năng, phù hợp yêu cầu của dự án; chắt lọc và tiếp cận, từ đó rút ngắn thời gian chờ kêu gọi đầu tư. Từng bước đưa việc quy hoạch tốt hệ thống dịch vụ và sản phẩm du lịch văn hóa Khmer vào thực tế du lịch của địa phương.

Đảm bảo công bằng, minh bạch và phân chia lợi ích của các đơn vị đầu tư kinh doanh du lịch, đặc biệt là lợi ích của các chủ thể văn hóa, qua đó tạo niềm tin cho các đơn vị tham gia hoạt động du lịch.

Doanh nghiệp đã đầu tư cần linh hoạt và nắm vững thời cơ để đẩy mạnh quảng bá, xây dựng mối quan hệ và liên kết cùng kinh doanh. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần kiên nhẫn với sự lựa chọn của mình, vì loại hình du lịch tìm hiểu văn hóa Khmer tuy có sức hấp dẫn riêng nhưng cũng khá kén khách tham quan.

Xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù theo hướng tour chuyên đề và gói dịch vụ nhỏ lẻ, kích thích nhu cầu du lịch văn hóa Khmer của từng du khách. Hoạt động phát triển du lịch văn hóa Khmer Nam bộ cần được thực hiện theo đúng lộ trình với kế hoạch quy hoạch cụ thể cho từng giai đoạn, có thể tham khảo kế hoạch khai thác (thí điểm) điểm tham quan du lịch văn hóa Khmer tại Trà Vinh.

Bảng 2. Kế hoạch khai thác (thí điểm) điểm tham quan du lịch văn hóa Khmer tại Trà Vinh

ke_hoach_khai_thac

Nguồn: Nguyễn Ngọc Diệp, 2018

Đẩy mạnh mối quan hệ, liên kết với các doanh nghiệp du lịch bên ngoài tỉnh, như: Sóc Trăng, Bến Tre, Cần Thơ, Thành phố Hồ Chí Minh để nhận khách và học hỏi kinh nghiệm kinh doanh.

4.3. Thực hiện tốt công tác quảng bá hình ảnh người Khmer Nam bộ và sản phẩm du lịch văn hóa Khmer tại Trà Vinh

Tạo điểm khác biệt hình ảnh người Khmer ở Sóc Trăng với người Khmer ở Campuchia, Trà Vinh cần xây dựng hình ảnh thương hiệu du lịch riêng cho mình. Tác giả đề nghị thương hiệu “Du lịch Trà Vinh - Trải nghiệm văn hóa xanh”, với hình ảnh đại diện là hình ảnh cô gái dân tộc Khmer với trang phục truyền thống bên cạnh hàng cây xanh của Ao Bà Om. 

Sơ đồ 1: Sơ đồ các giai đoạn quảng bá thương hiệu

“Du lịch Trà Vinh - Trải nghiệm văn hóa xanh”

so_do_cac_giai_doan_quang_ba_thuong_hieuNguồn: Nguyễn Ngọc Diệp, 2018

5. Kết luận

Văn hóa của người Khmer Nam bộ là hình thái văn hóa đặc trưng của người dân Trà Vinh, Sóc Trăng và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Du lịch văn hóa là một loại hình du lịch không dễ kinh doanh, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế có nhiều biến động như hiện nay. Tuy nhiên, nếu tỉnh Trà Vinh có thể học hỏi và đúc kết kinh nghiệm làm du lịch văn hóa của các quốc gia trong khu vực, các địa phương trong nước; thì với nguồn tài nguyên văn hóa Khmer giàu tiềm năng du lịch, hứa hẹn sẽ tạo nên nhiều nguồn lợi cho người dân địa phương và sẽ là một điểm sáng cho du lịch Việt Nam trong tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Bùi Thị Hải Yến (2012a), Quy hoạch du lịch, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
  2. Bùi Thị Hải Yến (chủ biên) (2012b), Du lịch cộng đồng, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
  3. Blog Yumi, Hãy học cách làm du lịch của Campuchia, iDulich, ngày truy cập 14/10/2018, <http://i-dulich.blogspot.com/2011/06/hay-hoc-cach-lam-du-lich-cua-campuchia.html.>
  4. Đỗ Thị Hoàng Hà, Kinh nghiệm về phát triển du lịch văn hóa tại Hàn Quốc và Thái Lan, Kỷ yêu Hội thảo khoa học quốc tế Các loại hình du lịch hiện đại, 10/2015, trang 242-247.
  5. Lê Văn Hiệu (2011), Nghiên cứu giá trị văn hóa dân tộc Khmer tỉnh Sóc Trăng phục vụ cho phát triển du lịch, Luận văn Thạc sĩ Địa lý học, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
  6. Nguyễn Thị Thống Nhất (2016), Phát triển du lịch trên cơ sở khai thác hợp lý giá trị di sản văn hóa thế giới vật thể. NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
  7. Nguyễn Ngọc Diệp (2018), Nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch văn hóa Khmer Nam bộ tại Trà Vinh, Luận văn Thạc sĩ Quản trị dịch vụ du lịch và lữ hành, Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, TP. Hồ Chí Minh.
  8. Trúc Giang (2015), Sóc Trăng tập trung khai thác tiềm năng du lịch, <http://baodautu.vn/soc-trang-tap-trung-khai-thac-tiem-nang-du-lich-d28902.html>, ngày truy cập 15/11/2017.

 

TOURISM AND THE CONSERVATION OF KHMER’S CULTURAL

HERITAGES IN TRA VINH PROVINCE:

LESSONS FROM INTERNATIONAL EXPERIENCE

Master. NGUYEN NGOC DIEP 1

CAO THI THAM 1

CHAU MINH TUAN 2

1 Dong Nai Technology University

2 Tra Vinh University

ABSTRACT:

Cultural heritages are material and spiritual products of historical, cultural and ethnographic significance. The conservation and promotion of cultural heritages are an important issue in the development of modern society. Cultural tourism is considered an effective way with encouraging achievements to promote the cultural conservation in many countries. It is necessary for individuals and businesses in the tourism industry of Tra Vinh Province to learn more about the cultural tourism from international experience. In addition, there is a need for greater cooperation between relevant agencies in the tourism industry to develop and conserve cultural heritages together in a scientific and sustainable way.

Keywords: Khmer Tra Vinh tourism, cultural tourism experience, experience in cultural heritage conservation.