TÓM TẮT:

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, lao động ngành Nông nghiệp tại Việt Nam đang thiếu khá nhiều kỹ năng về quản lý, quản trị, kết nối trong sản xuất và tiêu thụ, tính tuân thủ quy trình sản xuất nông sản sạch. Điều này dẫn tới giá trị của nông sản thấp, chất lượng chưa cao, gây khó khăn trong việc tiêu thụ, càng khó mở rộng thị trường ra nước ngoài. Việc đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao để phát triển nền nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu cấp bách và thách thức lớn của nông nghiệp, nông thôn. Bài viết đã nêu những vấn đề nổi bật về nguồn nhân lực ngành Nông nghiệp đồng thời đề xuất giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực ngành Nông nghiệp Việt Nam.

Từ khóa: nguồn nhân lực, ngành Nông nghiệp, chất lượng cao, đào tạo.

1. Những vấn đề nổi bật về nguồn nhân lực ngành Nông nghiệp

Theo công bố của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2020, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước ước tính là 55,43 triệu người. Tỷ lệ lao động tham gia lực lượng lao động là 76,6%. Lực lượng lao động trong độ tuổi lao động ước tính là 48,8 triệu người. Mức độ tham gia lực lượng lao động của dân cư khu vực thành thị và nông thôn vẫn còn khác biệt đáng kể, khu vực thành thị chiếm 68,7%; khu vực nông thôn chiếm 81,2%; ở các nhóm tuổi, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động ở khu vực thành thị đều thấp hơn nông thôn, trong đó chênh lệch nhiều nhất ở nhóm 15-24 tuổi và nhóm từ 50 tuổi trở lên. Những thông tin này cho thấy, người dân tại khu vực nông thôn gia nhập thị trường lao động sớm hơn và rời bỏ thị trường này muộn hơn khá nhiều so với khu vực thành thị. Đây là đặc điểm điển hình của thị trường lao động tại nước đang phát triển với cơ cấu lao động tham gia ngành Nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao.

Về tỷ lệ lao động có việc làm: Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trên cả nước ước tính là 54,6 triệu người. Lao động có việc làm đã qua đào tạo từ trình độ “sơ cấp nghề” trở lên ước tính là 12,1 triệu người, chiếm 22,2% số lao động có việc làm của toàn quốc. Cơ cấu lao động trong các ngành đang có sự chuyển dịch từ khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản sang khu vực công nghiệp và xây dựng và dịch vụ. Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính là 19,2 triệu người, chiếm 35,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng là 15,6 triệu người, chiếm 28,6%; khu vực dịch vụ là 19,5 triệu người, chiếm 36%. Đây là xu hướng chuyển dịch tất yếu, do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Từ đó, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn đáp ứng mục tiêu chương trình xây dựng nông thôn mới trên cả nước.

Lao động giản đơn thu hút nhiều nhân lực nhất trong thị trường lao động tại Việt Nam, chiếm 35% lao động có việc làm trên toàn quốc. Tỷ lệ người làm các công việc giản đơn còn cao trong bối cảnh đào tạo chuyên môn kỹ thuật (từ trình độ “sơ cấp nghề” trở lên) cho người lao động còn thấp (khoảng 22,5% đối với lực lượng lao động và 22,2% đối với lao động có việc làm). Toàn quốc có khoảng 1,1% lao động là “lãnh đạo trong các ngành, các cấp và các đơn vị”. Tỷ trọng này ở nam giới cao gấp 2,5 lần ở nữ giới (tương ứng là 1,6% so với 0,6%), ở khu vực thành thị cao gấp gần 4 lần khu vực nông thôn (tương ứng là 2,3% so với 0,6%), những lao động này hầu hết đều đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật (chiếm 99,2%).

Về tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm: Theo quy chuẩn quốc tế về người được coi là người thất nghiệp, số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước gần 1,1 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động ước là 2,17%. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động thành thị là 3,11%, nông thôn là 1,67%.

Số thanh niên (người từ 15 đến 24 tuổi) thất nghiệp ước khoảng 448,5 nghìn người, chiếm 40,4% tổng số người thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên ước là 6,27%. Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên khu vực thành thị là 10,49%, khu vực nông thôn là 4,64%. Tỷ lệ thất nghiệp nông thôn thấp hơn so với thành thị do lao động nông thôn chủ yếu rơi vào tình trạng thiếu việc làm. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ước là 1,21%. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi ở khu vực thành thị là 0,6%, ở khu vực nông thôn là 1,53%. Đa phần những người thiếu việc làm hiện làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (chiếm 71,1% trong tổng số người thiếu việc làm). Tỷ lệ người lao động thiếu việc làm trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản là 2,4%, cao gấp 6 lần tỷ lệ thiếu việc làm của người lao động làm việc trong khu vực “dịch vụ” và khu vực “công nghiệp và xây dựng”.

Bên cạnh đó, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năng suất lao động trong khu vực nông nghiệp chỉ bằng 38,1% năng suất lao động của ngành kinh tế. Lao động trong khu vực này đang kéo tụt năng suất lao động của Việt Nam so với khu vực và thế giới.

Điều này cho thấy chất lượng nguồn nhân lực nông thôn còn chưa cao. Số lao động giỏi trong các ngành nghề chất lượng cao còn thấp. Lao động nông thôn được đào tạo nghề nghiệp chủ yếu là trình độ sơ cấp, đào tạo dưới 3 tháng và ở trình độ trung cấp, cao đẳng còn thấp. Lao động nông thôn tham gia học nghề và tham gia thị trường lao động sau học nghề chủ yếu là lao động phổ thông. Lao động nông thôn khó tìm việc được ở các vị trí đòi hỏi kỹ năng nghề cao hơn.

Người dân còn thụ động, lúng túng trong việc lựa chọn nghề học, lựa chọn cơ sở đào tạo nghề, chưa tích cực tham gia học nghề. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề còn nghèo nàn, thiếu đồng bộ, nhiều người lao động còn thụ động trong việc đăng ký học nghề, lựa chọn nghề, cũng như tiếp cận với khoa học - kỹ thuật, cơ giới hóa để thay đổi tập quán sản xuất cũ.

Một vấn đề không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước khác, đó là những cơ sở đào tạo nghề chưa thực sự hỗ trợ tốt cho ngành Nông nghiệp. Đó là do tính đa dạng trong ngành Nông nghiệp o nên luôn có khoảng trống mà việc đào tạo kỹ năng nghề chưa thực sự làm được.

Bên cạnh đó, kết nối giữa kỹ năng và chất lượng việc làm thường không được quan tâm đúng mức trong ngành Nông nghiệp. Vì vậy, Công đoàn, có vai trò rất lớn, không chỉ trong đào tạo nghề hay phát triển kỹ năng nghề, mà ở tất cả mọi lĩnh vực đều có vai trò của 3 bên, đặc biệt là vai trò của doanh nghiệp. Bởi, doanh nghiệp là khách hàng đầu tiên, họ hiểu họ cần gì, cả hiện tại và tương lai. Đồng thời, doanh nghiệp có hiểu biết về kỹ thuật và có các mạng lưới phát triển. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là việc gắn kết giữa đào tạo và doanh nghiệp còn hạn chế. Một bộ phận lao động được tuyển dụng vẫn phải được đào tạo lại để đáp ứng với yêu cầu của doanh nghiệp.

2. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực ngành Nông nghiệp

Một là, sự hợp tác điều phối lẫn nhau giữa các bộ, ngành liên quan, ở đây là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc lên kế hoạch và phát triển đào tạo nghề cho ngành nông nghiệp. Để công tác đào tạo cho lao động nông thôn phát huy hiệu quả, từ đó, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sản xuất nông nghiệp, các địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến các chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp, khuyến khích, vận động lao động trẻ tham gia học nghề, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao thu nhập cho lao động nông thôn, nhất là lao động nữ. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng các lớp đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn ở địa phương để kịp thời chấn chỉnh các thiếu sót trong quá trình đào tạo, cũng như đề xuất các chế độ, chính sách chưa phù hợp trong quá trình tổ chức thực hiện. Các địa phương cũng cần đẩy mạnh xã hội hóa trong công tác đào tạo nghề nghiệp, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo nghề ở địa phương như đào tạo nghề kèm cặp tại các cơ sở sản xuất - kinh doanh theo phương thức truyền nghề thông qua các nghệ nhân và người có tay nghề cao.

Hai là, đào tạo nhân lực ngành Nông nghiệp cần quan tâm đến đặc thù về đào tạo nghề. Chúng ta hay nói về đào tạo chính quy hay phi chính quy, nhưng ở nông nghiệp, loại hình đào tạo rất phong phú, có những đào tạo chính quy nhưng cũng có những đào tạo trực tiếp trên đồng ruộng, đào tạo tại cơ sở làm việc.

Ba là, đưa hệ thống khuyến nông và hệ thống giáo dục nghề nghiệp gần nhau hơn. Đồng thời, nâng cao cơ hội cho các hoạt động phát triển kỹ năng hiện tại và đưa vào khung chính thức, để việc học từ khuyến nông có thể được cấp chứng chỉ ở một số điểm nếu có thể. Các cơ hội để nâng cao mức độ cấp chứng chỉ cho công nhân nông nghiệp và quản lý nông nghiệp thông qua hệ thống công nhận kỹ năng. Đồng thời, tăng cường kết nối giữa cơ sở đào tạo, doanh nghiệp, các cơ quan chức năng trong việc thực hiện giáo dục nghề nghiệp trong các khâu tuyển sinh, xây dựng chương trình, kế hoạch, tổ chức đào tạo và tuyển dụng lao động; chủ động hoàn thiện nội dung giáo trình, bài giảng, đảm bảo chất lượng dạy và học phù hợp.

Trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, nội dung chương trình học cần có sự bắt nhịp với những thay đổi trong thực tiễn; xem xét xây dựng mục tiêu nâng cao năng lực quản lý và ứng phó đối với rủi ro liên quan trong kinh doanh nông nghiệp để hạn chế thiệt hại xuống mức thấp nhất. Ngoài ra, cơ sở vật chất, cơ chế chính sách cho cơ sở đào tạo phải chuẩn bị đầy đủ, chu đáo để phát huy tối đa vai trò của giảng dạy trong phát triển nguồn nhân lực kinh doanh nông nghiệp.

Thực hiện tốt phương châm học đi đôi với hành, không chạy theo chỉ tiêu, thành tích, lợi ích nhóm. Điều quan trọng là đào tạo phải đi đôi với ứng dụng kiến thức lý thuyết vào thực tiễn, tìm đầu ra cho sản phẩm công nghệ cao, gắn lao động với doanh nghiệp, liên kết “đầu vào” với “đầu ra”. Xem xét, đánh giá những mô hình, phong trào thành công của các nước trên thế giới làm cơ sở thực hiện; tập trung liên kết mối quan hệ giữa nhân lực kinh doanh nông nghiệp sau đào tạo và các tổ chức, doanh nghiệp.

Bốn là, tổ chức nhân rộng mô hình hiệu quả gắn với quy hoạch xây dựng nông thôn mới, gắn với doanh nghiệp, phát triển kinh tế hợp tác. Đồng thời, đổi mới nội dung, phương pháp linh hoạt, gắn với nhu cầu thực tế, vừa giải quyết việc làm tại chỗ, vừa phục vụ nhu cầu nhân lực của các khu công nghiệp cũng như phục vụ xuất khẩu lao động.

Năm là, các tỉnh sẽ mở rộng chính sách khuyến khích doanh nghiệp về địa phương tổ chức hoạt động nhằm thu hút lao động tại địa phương vào làm việc tại doanh nghiệp. Hàng năm, các địa phương tổ chức rà soát lại danh mục nghề đào tạo phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế ở địa phương, quy hoạch sản xuất nông nghiệp, quy hoạch xây dựng nông thôn mới và yêu cầu làm nông nghiệp tiên tiến, hiện đại gắn với tái cơ cấu ngành Nông nghiệp.

Sáu là, tập trung nguồn lực để tổ chức đào tạo nghề cho lao động nông thôn đạt mục tiêu đề ra. Tăng cường đầu tư trang thiết bị đào tạo để phù hợp với tiến bộ khoa học, công nghệ hiện nay. Tổ chức triển khai nhân rộng các mô hình có hiệu quả nhằm đạt chất lượng, hiệu quả,... Để thay đổi được nhận thức, trước hết, cần giúp người lao động hiểu được giá trị của nông nghiệp công nghệ cao sẽ hỗ trợ như thế nào trong hiệu quả công việc và kết quả mang lại thông qua năng suất. Giáo dục nghề nghiệp phải là sự kết hợp giữa truyền đạt và định hướng để lý thuyết áp dụng vào thực tế hoạt động kinh doanh nông nghiệp, từ đó phát triển nguồn nhân lực lao động kế thừa.

Bảy là, đặt mục tiệu gia tăng tỷ lệ nhân lực qua đào tạo ngành Kinh doanh nông nghiệp đến năm 2030 đạt 80% theo như kế hoạch thực hiện Kết luận số 81-KL/TW ngày 29/7/2020 về “Bảo đảm an ninh lương thực quốc gia đến năm 2030” của Bộ Chính trị. Để thực hiện được việc này, cần có sự chung tay của các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp, người nông dân và cơ quan địa phương trong việc nỗ lực cải thiện trình độ chuyên môn của nguồn nhân lực kinh doanh nông nghiệp tại Việt Nam.

Tám là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng các lớp đào tạo nghề nông nghiệp cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn ở khu vực để kịp thời chấn chỉnh các thiếu sót trong quá trình đào tạo, cũng như đề xuất các chế độ, chính sách chưa phù hợp trong quá trình tổ chức thực hiện tại địa phương.

Chín là, bên cạnh việc tập trung nâng cao khả năng nguồn nhân lực, cũng cần xem xét phát triển công nghệ để nâng cao năng suất công việc. Các công nghệ mới cần thiết cho nông nghiệp thông minh, chẳng hạn như: công nghệ sinh học, công nghệ kỹ thuật số, tự động hóa, cơ khí chính xác và vật liệu mới nên được đưa vào chương trình giảng dạy tại các trường đại học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Ngân hàng Thế giới (WB) (2020), Việt Nam năng động - Tạo nền tảng cho một nền kinh tế thu nhập cao.
  2. Fusonie, A. E. (1995). John H. Davis: Architect of the agribusiness concept revisited. Agricultural History, 69(2), 326-348.
  1. Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn (2019), Cơ hội và thách thức đối với ngành Nông nghiệp Việt Nam trong hội nhập.

 Solutions to develop human resources in Vietnam’s agricultural sector

Master. Chu Thi Thao

Faculty of Accounting, University of Economics - Technology for Industries

ABSTRACT:

According to many experts, agricultural workers in Vietnam are lacking a lot of skills in management, administration, connection for the production and consumption of clean agricultural products. This issue reduces the quality and value of agricultural products, making it more difficult to consume and export Vietnam’s agricultural products. It is an urgent task for Vietnam’s agricultural sector to develop a high quality human resources. This paper presents important issues about human resources and proposes some solutions to develop human resources in Vietnam’s agricultural sector.

Keywords: human resources, agricultural sector, high quality, training.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 15, tháng 6 năm 2021]