TÓM TẮT:

Thương mại điện tử đã và đang được chứng minh là một loại hình kinh doanh quan trọng, chi phối nhiều hoạt động kinh tế - xã hội, có ảnh hưởng lớn và làm thay đổi nhiều mặt của đời sống. Tuy nhiên, giống như các loại hình kinh doanh khác, thương mại điện tử cũng có những mặt hạn chế và rủi ro đặc biệt đối với người mua hàng. Bài viết phân tích những rủi ro người mua hàng gặp phải, từ đó đưa ra các giải pháp.

Từ khóa: Thương mại điện tử, khách hàng, người tiêu dùng, B2C.

1. Khái niệm thương mại điện tử

“Thương mại điện tử” (tiếng Anh là electronic commerce, viết tắt là e-commerce) còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như: Thương mại trực tuyến (online trade), thương mại phi giấy tờ (paperless commerce), kinh doanh điện tử (electronic business),… thường được hiểu là thương mại được tiến hành trên các phương tiện điện tử và mạng viễn thông, đặc biệt là qua máy tính và mạng internet.

Với cách hiểu theo nghĩa rộng, thương mại điện tử (TMĐT) là thương mại truyền thống được áp dụng các công nghệ điện tử. Theo cách hiểu này trên thực tế, TMĐT đã được ứng dụng từ lâu, trong nhiều lĩnh vực của nền kinh tế, qua các phương tiện điện tử như điện thoại, fax, telex,…

Theo nghĩa hẹp, TMĐT được hiểu là những hoạt động gắn liền với internet. Tuy nhiên, ngày nay do internet được sử dụng phổ biến trong TMĐT nên nói đến TMĐT người ta thường nói đến hoạt động thương mại qua mạng internet. Thực tế, chính các hoạt động thương mại thông qua mạng internet đã làm phát sinh thuật ngữ “thương mại điện tử”.

Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cũng không đưa ra khái niệm về thương mại điện tử. Luật chỉ quy định khái niệm về giao dịch điện tử, là “giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử”. Phương tiện điện tử ở đây là phương tiện hoạt động trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự. Qua khái niệm này có thể thấy, phạm vi điều chỉnh của Luật là rất rộng, bao gồm nhiều lĩnh vực, không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà cả trong lĩnh vực dân sự, hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước. Luật có cách tiếp cận theo nghĩa rộng, với cách tiếp cận này tạo cho TMĐT khả năng áp dụng rất lớn, nhất là trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển như hiện nay sẽ có nhiều phương tiện hiện đại mới ra đời. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chính internet mới là động lực quan trọng nhất thúc đẩy sự phát triển của loại hình thương mại này.

2. Những rủi ro người mua hàng gặp phải khi tham gia giao dịch thương mại điện tử

Thị trường TMĐT Việt Nam có tiềm năng lớn vì ở nước ta, số lượng người sử dụng internet đã trên 65 triệu. Doanh số thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C) của Việt Nam năm 2015 đạt khoảng 4,07 tỷ USD, tăng 37% so với năm 2014, chiếm khoảng 2,8% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước. Năm 2017, tốc độ tăng trưởng thương mại điện tử được đánh giá tiếp tục ở mức cao (Báo cáo về chỉ số thương mại điện tử Việt Nam - được thực hiện bởi Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam - VECOM). Trong đó, tốc độ tăng trưởng trong một số lĩnh vực cụ thể rất ngoạn mục: Đối với lĩnh vực bán lẻ trực tuyến, thông tin từ hàng nghìn website TMĐT cho thấy tỷ lệ tăng trưởng doanh thu năm 2017 tăng 35%, khảo sát gián tiếp qua một số doanh nghiệp chuyển phát hàng đầu cho thấy tốc độ tăng trưởng doanh thu từ dịch vụ chuyển phát tăng từ 62% đến 200%. Đối với lĩnh vực thanh toán, theo thông tin từ Công ty cổ phần Thanh toán quốc gia Việt Nam (NAPAS), năm 2017 tăng trưởng số lượng giao dịch trực tuyến thẻ nội địa tăng khoảng 50% so với năm 2016 trong khi giá trị giao dịch tăng trưởng tới 75%. Đến năm 2020, doanh thu từ TMĐT dự báo tăng lên là 10 tỷ USD, chiếm khoảng 5% tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cả nước. Theo đó, đến năm 2025, quy mô này có thể đạt 33 - 35 tỷ USD, trở thành cơ hội rất lớn cho các doanh nghiệp kinh doanh uy tín. (Bảng 1)

Trong giai đoạn dịch bệnh bùng phát, TMĐT là kênh duy nhất để khách hàng tiếp cận tới một số hàng hóa và dịch vụ. Theo nghiên cứu của NIELSEN, ảnh hưởng của Covid-19 đến người Việt Nam khiến tăng 25% các hoạt động mua sắm trực tuyến, đi kèm với đó là sự sụt giảm mạnh tần suất mua hàng trực tiếp. Cách thức mua sắm trực tuyến của người tiêu dùng cũng khá đa dạng như họ có thể mua sắm qua các sàn giao dịch thương mại điện tử như Lazada.vn, Shopee.vn, Sendo.vn, Hotdeal.vn, Zalora.vn, Tiki.vn, Adayroi.com, Lotte.vn hoặc qua mạng xã hội Facebook, Instagram, Zalo,...

Bên cạnh đó, người tiêu dùng Việt cũng có xu hướng mua hàng qua chương trình quảng cáo trên ti vi (tiến hành giao dịch qua điện thoại). Kênh TMĐT này đem lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng: Nhanh chóng, dễ dàng tiếp cận thông tin, so sánh giá cả, tiết kiệm thời gian, đặc biệt với những người thích tìm hiểu về đánh giá (review) và sau đó tìm mua ngay trên mạng, trải nghiệm mua sắm khác biệt so với mua sắm trực tiếp,...

Tuy nhiên, hình thức mua sắm này cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro cho người mua hàng.

Một là, người mua hàng có thể gặp phải hàng giả, hàng kém chất lượng. Lý do bởi khách hàng không thể xác định được chính xác nguồn gốc sản phẩm. Việc mua hàng tất cả đều dựa trên niềm tin vào lời quảng cáo về xuất xứ sản phẩm nên khi gặp cơ sở bán hàng không uy tín thì rủi ro gặp phải hàng không đúng quảng cáo, hàng giả... thường sử dụng các hình ảnh có thể hàng thật, hàng chính hãng để quảng cáo, chào bán với giá rẻ hơn rất nhiều so với các cửa hàng, địa chỉ bán hàng chính hãng nhằm lôi kéo người tiêu dùng có nhu cầu mua sắm, sử dụng hàng hiệu nhưng với giá rẻ.

Điển hình là các mặt hàng đồng hồ, kính mắt, quần áo, giày dép... Các đối tượng vi phạm thường tận dụng mọi kẽ hở để vừa cung cấp thông tin về hàng hóa, thông tin giao dịch trên Internet, quảng bá trực tuyến và khuyến mãi rầm rộ, vừa thẩm lậu hoặc đưa những hàng hóa không rõ nguồn gốc, xuất xứ qua cửa khẩu, biên giới, cảng biển, sân bay... để bán tràn lan trên thị trường nội địa với quy mô ngày một lớn. Để qua mắt người tiêu dùng, các đối tượng thường sử dụng một địa chỉ không liên quan, địa chỉ không có thật hoặc giả mạo địa chỉ để giao dịch nhưng tập kết, tàng trữ hàng hóa tại nhiều địa điểm khác nhau hoặc kết hợp vừa làm nơi giao dịch vừa làm nơi ở, cất giấu hàng hóa nên khó khăn cho công tác điều tra, trinh sát, kiểm tra, bắt giữ và xử lý hành vi vi phạm.

Hai là, khách hàng mua sắm online qua phương tiện điện tử, đọc review từ những khách hàng khác, không nhìn trực tiếp sản phẩm. Do đó, có thể gặp sản phẩm không đúng ý thích, sai kích thước so với hình ảnh quảng cáo, sai mẫu mã, sai màu...

Ba là, TMĐT gắn liền với dịch vụ chuyển phát nhằm tiết kiệm thời gian cho khách hàng trong việc mua sắm. Tuy nhiên rất nhiều người tiêu dùng khiếu nại về việc nhận hàng chậm, hàng bị vỡ, hỏng, mất hàng... do khách hàng chỉ được mở xem hàng sau khi đã thanh toán.

Bốn là, vấn đề an toàn thông tin của khách hàng không được bảo đảm. Công ty cổ phần An ninh mạng Việt Nam đã nhận được nhiều yêu cầu hỗ trợ từ các tổ chức kinh doanh thương mại điện tử. Yêu cầu hỗ trợ phổ biến nhất là hạn chế tấn công DOS/DDOS, loại hình tấn công này không làm mất dữ liệu người dùng nhưng khiến cho công việc kinh doanh bị thiệt hại do ngưng trệ hệ thống và không thể phục vụ khách hàng. Các công ty cung cấp dịch vụ trực tuyến 24/7 thường gặp tấn công này như: Bán vé trực tuyến, đặt chỗ khách sạn,… Nhiều rủi ro nghiêm trọng về thương mại điện tử tồn tại từ lâu và rất có thể đã bị kẻ xấu lợi dụng khi dữ liệu khách hàng bị đánh cắp. Nhiều tài khoản khách hàng được người dùng sử dụng chung với các dịch vụ khác, dẫn đến một số khách hàng bị đánh cắp thông tin liên quan đến tài khoản ngân hàng, bị hack các trang cá nhân để sử dụng lừa đảo những người khác.

Hiệp hội Thương mại điện tử tiến hành khảo sát và đánh giá trực tiếp các website trước các rủi ro an toàn thông tin. (Bảng 2)

Có 17% website trong khảo sát mắc rủi ro nghiêm trọng A1 tức là dữ liệu của khách hàng có thể bị xem trái phép bởi người dùng khác. Một khách hàng khi sử dụng dịch vụ TMĐT tại các website này có khả năng mất thông tin cá nhân của mình như tên, email, mật khẩu (dạng mã hóa) hoặc thông tin ngân hàng. Các website thương mại điện tử bán lẻ thường có số lượng lớn khách hàng nên các dữ liệu này là tài sản quý giá đối với kẻ xấu. Các thông tin này có thể được dùng để xâm nhập trái phép tài sản thông tin của khách hàng. Các rủi ro nghiêm trọng khác như A2, A3 và A4 có tỉ lệ 8%. Tức là, khi khách hàng cung cấp thông tin, giao dịch qua các website đó có thể bị xem trộm dữ liệu giao dịch. Đặc biệt, có máy chủ bị rủi ro nghiêm trọng A4 là rủi ro mà kẻ tấn công có thể lợi dụng lỗ hổng máy chủ để kiểm soát thông tin. Thậm chí, khảo sát phát hiện có website TMĐT chiếm thị phần hàng đầu thị trường tồn tại đồng thời trên một lỗi nghiêm trọng. (Bảng 3)

Khảo sát và đánh giá cho thấy, 33% hệ thống website TMĐT gặp lỗi nghiêm trọng. Đây là tỉ lệ lớn tương ứng với hàng ngàn người tiêu dùng đang gặp rủi ro đối với dữ liệu của họ. Bên cạnh đó, 67% thể hiện tỉ lệ các website chưa phát hiện rủi ro nghiêm trọng về TMĐT. Do khuôn khổ của đợt khảo sát, phần này có thể bao gồm các rủi ro ít nghiêm trọng hơn, hoặc nằm ở thành phần khác và cần có thêm khảo sát, đánh giá chi tiết và toàn diện hơn.

3. Giải pháp phòng ngừa rủi ro đối với người mua hàng trong giao dịch thương mại điện tử

Về phía người tiêu dùng, phải thực sự là “người tiêu dùng thông minh”, hiểu rõ luật để tự bảo vệ mình. Pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã quy định rất rõ những điều khoản nhằm đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng khi tiến hành các giao dịch TMĐT. Chẳng hạn, các doanh nghiệp và cá nhân khi giao kết hợp đồng từ xa phải cung cấp cho khách hàng những thông tin cơ bản gồm: Tên của tổ chức, cá nhân kinh doanh; số điện thoại liên lạc; trụ sở, địa chỉ cơ sở chịu trách nhiệm về đề nghị giao kết hợp đồng (nếu có); chất lượng hàng hóa, dịch vụ; chi phí giao hàng (nếu có); phương thức thanh toán (chuyển khoản hay tiền mặt khi nhận hàng); phương thức giao hàng; thời hạn giao hàng (bao lâu kể từ khi hai bên đạt được thỏa thuận mua bán); cung ứng dịch vụ,...             

Về phía doanh nghiệp, đầu tiên, doanh nghiệp khi phát triển sản phẩm cần chú ý đến thiết kế luồng kinh doanh hợp lý, kiểm soát chặt chẽ truy xuất dữ liệu theo nguyên tắc “khách hàng truy cập thông tin với quyền hạn phù hợp định trước”. Tiếp đó, kiểm soát chặt chẽ và áp dụng các kiểm tra an toàn thông tin ngay từ khi phát triển ứng dụng và sau khi đưa vào cung cấp. Cuối cùng, doanh nghiệp cần định kỳ tiến hành rà soát và đánh giá lại mức độ an toàn của các hệ thống của mình vì theo thời gian hệ thống thường xuất hiện các lỗ hổng, rủi ro mới. Doanh nghiệp cần thay đổi cơ cấu kịp thời; chiến lược và phương pháp quản lý phù hợp; thích nghi với xu hướng mới; đầu tư và nâng cấp an ninh mạng để phòng ngừa tội phạm công nghệ cao nhằm khai thác triệt để những cơ hội và hạn chế tối thiểu những rủi ro, hạn chế mà TMĐT mang đến.

Về phía Chính phủ, cần có chiến lược đầu tư kịp thời, đúng đắn vào việc phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cấp mạng Internet. Bên cạnh đó, cũng cần phải có chế tài, quy định chặt chẽ trong kinh doanh TMĐT nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan như: Doanh nghiệp, đối tác, khách hàng,... Ngoài ra, để bảo đảm quyền lợi của người mua, đối với tình trạng tin nhắn rác, các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông phải có trách nhiệm thực hiện các giải pháp kỹ thuật nhằm ngăn chặn và chấm dứt hành vi vi phạm này. Mặt khác, liên quan đến chứng từ trong giao dịch điện tử, luật cũng quy định về trách nhiệm của người bán trong việc tạo điều kiện cho người tiêu dùng truy cập, tải, lưu giữ và in hóa đơn, chứng từ, tài liệu liên quan đến giao dịch. Để đáp ứng quy định này, các trang web bán hàng qua mạng cần tích hợp các giải pháp kỹ thuật nhằm đảm bảo khả năng truy cập, sao lưu chứng từ của người tiêu dùng,… Cục Quản lý cạnh tranh cũng đã nhấn mạnh: “Các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi giao dịch trong TMĐT cũng như bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng đều đã có. Quan trọng nhất là ý thức của người tiêu dùng trong lựa chọn và quyết định các giao dịch để hạn chế rủi ro cho mình”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. NIELSEN (2020), Nghiên cứu ảnh hưởng của COVID 19 đến người Việt Nam, Hà Nội.
  2. Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Khảo sát hiện trạng an toàn thông tin trong thương mại điện tử Việt Nam, Hà Nội.
  3. Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2020), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử, Hà Nội.

 Solutions to help consumers avoid risks associated

with e-commerce transactions in Vietnam

 Master. Mai Hoang Thinh

Faculty of Business Administration

University of Economics - Technology for Industries

ABSTRACT:

E-commerce has become one of the most important business types and it dominates many socio-economic activities with great impacts on many social – economic aspects. However, e-commerce has its own drawbakcs and risks to consumers. This article analyzes consumer risks associated with e-commerce and proposes some solutions.

Keywords: e-commerce, customers, consumers, B2C.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 6, tháng 3 năm 2021]