Giải pháp tài chính cho rủi ro thiên tai tại Việt Nam

Theo ước tính mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WB), mỗi năm, Việt Nam có thể phải chịu tổn thất vật chất đối với tài sản do lũ lụt, bão, động đất lên đến 30,2 ngàn tỷ đồng (1,4 tỷ USD). Và con số này

Phụ thuộc nhiều vào ngân sách nhà nước

WB đánh giá, Việt Nam là quốc gia phải gánh chịu nhiều nguy cơ thiên tai, như bão, lốc xoáy, lũ lụt và hạn hán. Ước tính khoảng 60% tổng diện tích đất đai và 71% dân số phải chịu nguy cơ bão và lũ lụt. Hàng năm, tổn thất kinh tế trực tiếp bình quân do bão và lũ lụt gây ước bằng khoảng 0,8% tổng sản phẩm quốc nội (GDP), đứng thứ 3 trong các quốc gia ASEAN chịu ảnh hưởng nặng nề nhất.

Ông Sebastian Eckardt - Chuyên gia kinh tế trưởng của WB tại Việt Nam cho biết: “Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng tiêu cực từ thiên tai và biến đổi khí hậu, dẫn tới tổn thất nghiêm trọng về kinh tế. Một cách tiếp cận mang tính chiến lược nhằm cải thiện khả năng chống chịu của đất nước trước những cú sốc như vậy sẽ giúp bảo đảm an toàn sinh kế của người dân và giúp duy trì tăng trưởng kinh tế và những tiến bộ đạt được trong quá trình phát triển”.

Từ năm 2013, WB với sự hỗ trợ của Chính phủ Thụy Sĩ (SECO), đã hỗ trợ Việt Nam cải thiện các giải pháp tài chính và bảo hiểm rủi ro thiên tai của Nhà nước thông qua xây dựng mô hình rủi ro thiên tai dành riêng cho Việt Nam. Mô hình này giúp Chính phủ Việt Nam và các tổ chức có đánh giá tốt hơn về khả năng xảy ra và mức độ nghiêm trọng của tổn thất do thiên tai có thể được sử dụng nhằm lập kế hoạch ứng phó với các tác động về tài chính của thiên tai trước khi chúng xảy ra. Đồng thời, cải thiện các giải pháp tài chính để bảo vệ ngân sách nhà nước với thiên tai và phát triển thị trường bảo hiểm rủi ro thiên tai trong nước.

Trình bày kết quả của mô hình rủi ro thiên tai cho Việt Nam, ông Olivier Mahul - Chuyên gia trưởng toàn cầu, Trưởng phái đoàn, Quản lý Chương trình Giải pháp tài chính rủi ro thiên tai của WB cho biết: Việt Nam có thể phải chịu tổn thất vật chất đối với tài sản của khu vực công và tư nhân do lũ lụt, bão và động đất lên đến 30.200 tỷ đồng (1,4 tỷ USD) mỗi năm, trong đó nghĩa vụ dự phòng của Chính phủ được ước tính ở mức 5.900 tỷ đồng (278 triệu USD). Tài sản của cư dân và tài sản của khu vực công (công sở và cơ sở hạ tầng công cộng) lần lượt chiếm 65% và 11% tổng thiệt hại. Và trong vòng 50 năm tới, với xác suất 40%, Việt Nam có thể phải chịu thiệt hại vượt quá 141.200 tỷ đồng (6,7 tỷ USD) do lũ lụt, bão hoặc động đất. Tổn thất bình quân hàng năm ở một số địa phương có thể cao hơn 1.700 tỷ đồng. Các địa phương khu vực Bắc Trung bộ có tỷ lệ nghèo cao hơn cũng có xu hướng phải đối mặt với thiệt hại cao hơn do bão và lũ lụt.

Nửa đầu năm nay, nông nghiệp Việt Nam có mức tăng trưởng âm do ảnh hưởng của hạn mặn. WB đưa ra khuyến nghị cần sớm có sự rà soát tổng thể về cơ cấu tổ chức các quỹ hỗ trợ thiên tai, đồng thời cân nhắc áp dụng các chương trình bảo hiểm tài chính để giảm thiểu tác động thiên tai đối với nền kinh tế và đối với từng người dân.

Với đặc điểm địa lý, địa chất, khí tượng của mình, trong thời gian qua, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam rất chú trọng xây dựng và triển khai hệ thống các chiến lược quy hoạch về chính sách, giải pháp phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Hiện có nhiều công cụ tài chính khác nhau để đảm bảo tài chính nhằm ứng phó và khôi phục thiên tai, như dự phòng ngân sách ở trung ương và các địa phương, bố trí lại ngân sách, dự trữ nhà nước, quỹ dự trữ tài chính, quỹ phòng chống thiên tai, các công cụ chuyển giao rủi ro như bảo hiểm và viện trợ của các nhà tài trợ.

Tuy nhiên, các cấp các ngành hiện còn phụ thuộc nhiều vào ngân sách nhà nước để đảm bảo kinh phí xử lý sau thiên tai. Bên cạnh đó, Quỹ phòng chống thiên tai được thành lập ở cấp tỉnh nhằm bổ sung cho các nguồn lực ngân sách. Song các quỹ này vẫn còn gặp nhiều hạn chế nên chưa được vận hành đầy đủ ở địa phương. Gần đây, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 01/2016/QĐ-TTg về cơ chế và quy trình sử dụng dự phòng ngân sách trung ương để hỗ trợ tài chính cho các địa phương trong trường hợp thiên tai. Nhưng hiện vẫn chưa có một chiến lược toàn diện nhằm điều phối và tối ưu hóa các nguồn vốn có thể huy động, đặc biệt ở các cấp địa phương. Mặt khác, các công cụ chuyển giao rủi ro mới như bảo hiểm hiện mới ở giai đoạn sơ khai.

Kết hợp các công cụ tài chính khác nhau nhằm đảm bảo kinh phí cho công tác ứng phó và tái thiết về quản lý rủi ro thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu

Giải pháp tài chính cho rủi ro thiên tai

Chính phủ Việt Nam cần một chiến lược bảo vệ tài chính nhằm bảo vệ người dân và ngân sách tốt hơn khỏi những chi phí do thiên tai gây ra. Thông qua việc kết hợp các công cụ tài chính khác nhau để có thể lựa chọn một số phương án nhằm tăng cường khả năng chống chịu về mặt tài chính:

- Việt Nam cần xây dựng chiến lược bảo vệ tài chính. Mô hình rủi ro thiên tai có thể giúp làm căn cứ để Chính phủ xây dựng một chiến lược đảm bảo tài chính cho các phí tổn do thiên tai gây ra. Chiến lược bảo vệ tài chính hiệu quả về mặt kinh tế phải được xây dựng dựa trên kết hợp tối ưu giữa các nguồn/công cụ tài chính, qua đó tổn thất thiên tai có thể được phân tầng và đảm bảo kinh phí thông qua kết hợp các công cụ như dự phòng ngân sách, quỹ dự phòng thiên tai (trung hạn) ở trung ương và địa phương, nguồn tín dụng dự phòng, các công cụ chuyển giao rủi ro (gồm cả bảo hiểm) để đảm bảo truyền dẫn vốn và kinh phí một cách kịp thời và hiệu quả.

- Chiến lược bảo vệ tài chính phải là một phần của chương trình tổng thể quản lý rủi ro thiên tai và biến đổi khí hậu chung. Chiến lược bảo vệ tài chính cần bổ sung cho các hoạt động đầu tư nhằm phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro qua đó giảm thiểu những rủi ro lớp dưới.

- Các cơ chế, chính sách, pháp luật, thể chế và vận hành quỹ phòng chống thiên tai cũng như hoạt động thực chất của các quỹ này cần được rà soát nhằm tăng cường khả năng chống chịu về tài chính của các địa phương.

- Khu vực tư nhân có thể đóng góp về vốn, chuyên môn kỹ thuật và các giải pháp tìa chính sáng tạo để bảo vệ tốt hơn cho chính quyền và xã hội nhằm đối phó thiên tai.