GS.TS Trần Thọ Đạt: Cần một chương trình tổng thể với quy mô đủ lớn để phục hồi kinh tế

“Các dữ liệu về tình hình dịch bệnh cho thấy “đỉnh dịch” đã qua và tương ứng, nền kinh tế đã “tạo đáy” – Vị chuyên gia cho biết.
tran tho dat
GS.TS Trần Thọ Đạt

Trong Báo cáo chiến lược Quý 4/2021 mới công bố của Công ty chứng khoán Dầu khí (PSI), GS.TS Trần Thọ Đạt - Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo trường ĐH Kinh tế Quốc dân (Hà Nội) cho rằng: Việc chuyển chiến lược thực hiện mục tiêu “kép” từ nỗ lực “sạch bóng covid” sang chống dịch an toàn, linh hoạt và hiệu quả đã mở đầu cho một giai đoạn phục hồi kinh tế.

Đỉnh dịch đã qua, nền kinh tế đã tạo đáy

GS.TS Trần Thọ Đạt nhận xét, trong quý 3/2021, lần đầu tiên GDP Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng âm 6,17% và đây là mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam tính và công bố GDP hàng quý. Các động lực tăng trưởng “truyền thống” đã sụt giảm mạnh: Công nghiệp và xây dựng giảm 5,02%; dịch vụ giảm 9,28%; nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ tăng 1,04%.

Kết quả này cho thấy dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Các địa phương kinh tế trọng điểm đã phải thực hiện giãn cách xã hội kéo dài, đời sống và thu nhập của người dân, lao động bị sụt giảm nghiêm trọng.

Tuy vậy, nhìn tổng thể bức tranh chung của 9 tháng đầu năm vẫn có những điểm sáng: GDP tăng trưởng 1,42%, khu vực nông lâm thủy sản vẫn giữ được vai trò trụ đỡ, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn tăng cao trong bối cành nhiều chuỗi cung ứng bị đứt gãy, vốn đầu tư nước ngoài đăng ký mới và vốn điều chỉnh tăng thêm của các dự án tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước, lạm phát trong tầm kiểm soát, lãi suất vẫn xu hướng giảm.

Theo GS.TS Trần Thọ Đạt, các dữ liệu về tình hình dịch bệnh cho thấy “đỉnh dịch” đã qua và tương ứng, nền kinh tế đã “tạo đáy”. Việc chuyển chiến lược thực hiện mục tiêu “kép” từ nỗ lực “sạch bóng covid” sang chống dịch an toàn, linh hoạt và hiệu quả đã mở đầu cho một giai đoạn phục hồi kinh tế.

Tuy nhiên, con đường phục hồi như thế nào sẽ phụ thuộc vào: (i) năng lực kiểm soát dịch bệnh - Điều này tùy thuộc rất lớn vào tốc độ tiêm chủng vắc xin, (ii) các phương án cụ thể ở quy mô toàn quốc, liên vùng, từng địa phương, từng tỉnh trong việc ứng phó với các “đốm” dịch có thể xuất hiện, (iii) chương trình phục hồi kinh tế với các gói kích thích được thiết kế cả về kinh tế và xã hội.

“Tác động kinh tế-xã hội của đợt dịch lần thứ 4 rất lớn, ảnh hưởng sâu và quy mô rộng. Do vậy cần một chương trình tổng thể với quy mô đủ lớn, kịp thời, hiệu quả, tập trung mọi nguồn lực nhanh chóng kiểm soát dịch bệnh, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, người lao động vượt qua khó khăn, tận dụng thời cơ, bắt nhịp xu hướng mới” – Chuyên gia nhấn mạnh.

Theo đó, các giải pháp cần mang tính tổng thể, ít nhất là cho 2 năm 2022 và 2023, với nguồn lực đủ lớn và thực hiện khẩn trương để sớm thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế gắn với cải cách cơ cấu, cải thiện năng lực cạnh tranh, tăng sức chống chịu của nền kinh tế trước các cú sốc, không lỡ nhịp đà phục hồi kinh tế thế giới thế giới đang diễn ra khá mạnh.

Cần chú trọng đến xu hướng cấu trúc thay đổi của nền kinh tế hậu đại dịch

GS.TS Trần Thọ Đạt đánh giá, không gian tài khóa vẫn còn đủ mạnh để có thể thực hiện chính sách tài khóa mở rộng với liều lượng mạnh hơn và độ bao phủ lớn hơn. Những kết quả tích lũy được từ giảm thâm hụt ngân sách và giảm nợ công trong những năm qua cần được coi là “dư địa” cho việc mở rộng tài khóa trong bối cảnh hiện nay.

Đồng thời, tỷ lệ bội chi ngân sách và trần nợ công cần được nới rộng trong điều kiện “bất thường”, không chỉ bảo đảm “an toàn” của ngân sách và nợ công trước các cú sốc mà cần hướng nhiều hơn đến vai trò trọng yếu là “đi ngược chu kỳ kinh tế”.

Rủi ro tài chính công, tính bền vững của nợ công khi triển khai thêm các gói hỗ trợ cần được cân nhắc và so sánh với kịch bản “an toàn” ngân sách nhưng dẫn đến suy thoái kinh tế làm gia tăng rủi ro của bản thân ngân sách và nợ công trong chu kỳ kinh tế tiếp theo.

Theo vị chuyên gia, các gói cứu trợ và hỗ trợ tài khóa cần hướng đến việc gia tăng và mở rộng phạm vi hỗ trợ trực tiếp tiền mặt cho người dân, đặc biệt là bộ phận lao động tự do, lao động thuộc khu vực phi chính thức là những người chịu ảnh hưởng mất thu nhập, giảm sâu thu nhập nhưng chưa được hỗ trợ.

Đáng chú ý, cần có cách tiếp cận mới theo phương thức không chính thức những đối tượng này qua các tổ chức thiện nguyện, các tổ chức phi chính phủ. Với tỷ lệ tiêu dùng cao, tác động của các biện pháp hỗ trợ thu nhập và do đó tiêu dùng của người dân sẽ có tác động trực tiếp “theo số nhân chi tiêu” đến GDP.

GS.TS Trần Thọ Đạt nhấn mạnh, việc giảm phí đối với người dân và doanh nghiệp (phí điện, nước, cước viễn thông, phí công đoàn…) sẽ có tác động trực tiếp và tức thì trong việc giảm tổn thất hiện đang rất lớn đối với doanh nghiệp vốn đã kiệt sức do dịch bệnh kéo dài. Do đó, cần xem xét chính sách miễn giảm thuế suất thuế giá trị gia tăng với tư cách là loại thuế có diện điều tiết rộng.

Đồng thời, cân nhắc lại một số sắc thuế nhằm khuyến khích chuyển đổi số, sản xuất thông minh, phát triển năng lượng xanh - sạch, nông nghiệp hữu cơ… hạn chế phát triển các ngành nghề thâm dụng tài nguyên, sử dụng nhiều năng lượng hóa thạch, tác động xấu đến môi trường.

Về chính sách tiền tệ, theo GS.TS Trần Thọ Đạt, trong bối cảnh lạm phát được kiểm soát tương đối tốt, giảm thêm lãi suất điều hành là giải pháp nên được cân nhắc trước tiên, nhằm giảm chi phí vốn cho hệ thống ngân hàng, qua đó sẽ tác động tích cực lên lãi suất cho vay để hỗ trợ các doanh nghiệp.

Lưu ý, lãi suất chỉ là một yếu tố tác động đến khả năng tiếp cận và tăng trưởng tín dụng. Muốn bơm tiền ra nền kinh tế trong khi doanh nghiệp không đáp ứng chuẩn vay trong bối cảnh hiện nay, cần có thêm các chương trình bảo lãnh tín dụng cụ thể.

Kinh nghiệm từ các cuộc ứng phó với khủng hoảng kinh tế cho thấy, các công cụ lãi suất nói riêng và chính sách tiền tệ nói chung không có tác động tức thì so với chính sách tài khóa. Cụ thể, chính sách tài khóa vừa có tác dụng cứu trợ và hỗ trợ, trong khi chính sách tiền tệ có tác dụng hỗ trợ là chủ yếu.

Tuy nhiên, sự phân biệt tác động rạch ròi giữa chính sách tài khoá và tiền tệ là ít cần thiết hơn khi xử lý các tình huống khẩn cấp như khủng hoảng và đại dịch. Việc kết hợp các chính sách này chưa bao giờ trở nên cấp thiết như hiện nay thông qua việc kết hợp các bảng cân đối kế toán của cả Ngân hàng Nhà nước và Bộ tài chính để đưa ra các gói hỗ trợ cụ thể, chẳng hạn, ngân sách được sử dụng đề “cấp bù lãi suất”.

GS.TS Trần Thọ Đạt cho rằng, chương trình phục hồi kinh tế sau đại dịch cần chú trọng đến xu hướng cấu trúc thay đổi của nền kinh tế hậu đại dịch thông qua các gói kích thích số, đầu tư vào công nghệ số và cơ sở hạ tầng đóng vai trò hỗ trợ cho toàn bộ nền kinh tế, các chính sách thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp mang tính đổi mới sáng tạo.

Nền kinh tế đã đi được ¾ chặng đường của năm với mức tăng trưởng GDP đạt 1,42%. Diễn biến các chỉ số của nền kinh tế quý 4/2021 sẽ phụ thuộc tốc độ tiêm chủng và khả năng kiểm soát dịch bệnh, hiệu quả và tính kịp thời của các gói cứu trợ, các doanh nghiệp phục hồi như thế nào khi quay trở lại trạng thái “bình thường mới” và tổng thể là nền kinh tế bắt nhịp ra sao với đà phục hồi của thế giới.

Nhiều dự báo cho đến nay đã đưa ra các kịch bản chênh lệch nhau khá lớn, nhưng tập trung ở con số khoảng 3% cho cả năm 2021, muốn vậy quý 4 phải tăng trưởng khoảng hơn 5%.

Về các động lực tăng trưởng ứng với “cỗ xe tam mã” là tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu, có thể dự đoán tiêu dùng của dân cư sẽ có sự phục hồi mạnh khi các doanh nghiệp tái khởi động lại sản xuất kinh doanh, khu vực kinh tế phi chính thức nhanh chóng trở lại trạng thái “bình thường mới”, cùng với việc gia tăng và thực thi sớm các gói an sinh xã hội; đầu tư sẽ chủ yếu dựa vào tốc độ của giải ngân đầu tư công, và cuối cùng là đà tăng của xuất khẩu sẽ được duy trì nếu tiếp tục tận dụng được quá trình phục hồi đang khá mạnh của các thị trường xuất khẩu chủ lực.

PV