Hoàn thiện công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước

ThS. NGUYỄN ÁNH HỒNG (Khoa Kế toán - Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp)

TÓM TẮT:

Bài viết đề cập đến vấn đề hoàn thiện công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước. Nội dung bài viết gồm: (1) Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán; (2) Thực trạng kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước; (3) Giải pháp hoàn thiện.

Từ khóa: Kiểm soát chất lượng kiểm toán, Đoàn kiểm toán, Kiểm toán Nhà nước.

1. Sự cần thiết phải hoàn thiện công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán

Kiểm toán Nhà nước (KTNN) đã thực hiện hàng nghìn cuộc kiểm toán với quy mô lớn nhỏ khác nhau trên hầu hết các lĩnh vực. Kết quả mà KTNN thu được phản ánh qua các Báo cáo kiểm toán không chỉ là những con số tăng thu, tiết kiệm chi cho ngân sách nhà nước (NSNN), mà còn giúp cho các cơ quan tổ chức nhìn nhận và đánh giá đúng đắn thực trạng tài chính để chấn chỉnh trong công tác quản lý điều hành, khắc phục yếu kém, góp phần ngăn ngừa lãng phí, thất thoát và tham nhũng. Do đó, Báo cáo kiểm toán của KTNN đóng vai trò quan trọng trong việc xác nhận tính đúng đắn, trung thực của Báo cáo tài chính, Báo cáo quyết toán ngân sách; đánh giá việc tuân thủ pháp luật, tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; làm căn cứ để:

- Quốc hội sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán ngân sách nhà nước, quyết định phân bổ ngân sách trung ương, quyết định dự án và công trình quan trọng quốc gia được đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước; xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước và sử dụng trong hoạt động giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, nghị quyết của Quốc hội về ngân sách nhà nước, dự án và công trình quan trọng quốc gia, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, dự án và công trình xây dựng cơ bản quan trọng khác.

- Chính phủ, cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức, cơ quan khác của Nhà nước sử dụng trong công tác quản lý, điều hành và thực thi nhiệm vụ của mình;

- Hội đồng nhân dân sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán, phân bổ và giám sát ngân sách địa phương; phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương;

- Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan điều tra sử dụng trong quá trình xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về kinh tế, tài chính;

- Đơn vị được kiểm toán phải thực hiện các kết luận, kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước đối với các sai phạm trong báo cáo tài chính và các sai phạm trong việc tuân thủ pháp luật; thực hiện các biện pháp khắc phục yếu kém trong hoạt động của đơn vị do KTNN phát hiện và kiến nghị.

Tuy nhiên, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế, năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của KTNN còn nhiều hạn chế, bất cập ảnh hưởng đến chất lượng của Báo cáo kiểm toán. Do đó, việc nâng cao chất lượng hoạt động của KTNN đang là vấn đề cấp thiết được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm.

Để nâng cao chất lượng họat động của KTNN, chúng ta cần tăng cường công tác Kiểm soát chất lượng kiểm toán (KSCLKT), đặc biệt là KSCLKT tại Đoàn kiểm toán. KSCLKT tại Đoàn kiểm toán có vai trò quan trọng giúp nâng cao trách nhiệm tự kiểm tra, kiểm soát của kiểm toán viên (KTV) trong quá trình thực hiện kiểm toán và trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cấp trên đối với cấp dưới: Kiểm toán trưởng giám sát chất lượng và hoạt động của Đoàn kiểm toán thông qua Trưởng đoàn, Trưởng đoàn kiểm toán giám sát tiến trình hoạt động kiểm toán thông qua các Tổ trưởng Tổ kiểm toán; Tổ trưởng Tổ kiểm toán giám sát KTV trong quá trình thực hiện kiểm toán đảm bảo tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực và quy định của KTNN.

Hiện nay, việc kiểm soát chất lượng kiểm toán tại các Đoàn kiểm toán tuy đã được KTNN chuyên ngành/ khu vực tổ chức thực hiện nhưng số lượng, phạm vi còn hạn chế. Các thành viên trong Đoàn kiểm toán không được quán triệt, quy định rõ trách nhiệm trong công tác KSCLKT nên thường chủ quan và không chú trọng thực hiện dẫn đến còn nhiều mặt tồn tại, hạn chế như đã phân tích, làm ảnh hưởng đến chất lượng, mức độ tin cậy của Báo cáo kiểm toán. Do đó, KTNN cần đưa ra các giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chất lượng tại Đoàn kiểm toán nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động kiểm toán, duy trì và khẳng định uy tín, vị trí vai trò của KTNN trong hệ thống quản lý vĩ mô của Nhà nước.

2. Thực trạng kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước

- Đối với giai đoạn chuẩn bị kiểm toán

Theo kết quả thống kê, có 70/76 KTV (tương đương 92%) đều cho rằng hầu hết các kế hoạch kiểm toán (KHKT) đều được lập đúng kết cấu, nội dung căn cứ theo quy định của KTNN và thể hiện được các mục tiêu kiểm toán chủ yếu theo hướng dẫn hàng năm của KTNN; các KHKT của Đoàn đều đã mô tả đầy đủ và đánh giá được hiệu quả, hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ, xác định được trọng yếu, rủi ro kiểm toán, nội dung kiểm toán phù hợp với thực tế tại đơn vị được kiểm toán; mục tiêu trong KHKT của các cuộc kiểm toán đều được xác định phù hợp và bám sát mục tiêu kiểm toán do Tổng KTNN quy định, nội dung kiểm toán được xác định cơ bản phù hợp với mục tiêu kiểm toán và được cụ thể hóa theo từng đơn vị được kiểm toán. Tuy nhiên, 8% KTV còn lại cho rằng công tác kiểm tra, soát xét chất lượng KHKT của lãnh đạo Đoàn và lãnh đạo đơn vị chưa tốt, một số Đoàn kiểm toán còn phân công KTV chưa có kinh nghiệm hoặc chuyên ngành không phù hợp thực hiện công tác khảo sát thu thập thông tin. Do đó, thông tin thu thập được chưa đầy đủ, chưa đánh giá được hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ, chưa phân tích được những hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý tài chính, kế toán cũng như những vấn đề nổi cộm về tình hình tài chính của đơn vị; vì vậy, nhiều KHKT đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ còn sơ sài, chưa đầy đủ thông tin cho việc xác định trọng yếu và rủi ro kiểm toán, dẫn tới việc nhận xét đánh giá rủi ro kiểm toán không chính xác, việc chọn mẫu kiểm toán không đảm bảo chất lượng kiểm toán, mẫu chọn bị trùng lắp, thời gian phân bổ và phân công nhiệm vụ không hợp lý, kém hiệu quả; ngoài ra, một số KHKT mục tiêu và nội dung kiểm toán chưa phù hợp với hướng dẫn hàng năm của KTNN đối với lĩnh vực kiểm toán liên quan, thậm chí có KHKT còn sao chép hoàn toàn mục tiêu kiểm toán chung theo hướng dẫn của KTNN.

Sau khi dự thảo Kế hoạch kiểm toán được lãnh đạo KTNN xét duyệt, Kiểm toán trưởng phải chỉ đạo sửa chữa, hoàn hiện theo ý kiến kết luận của lãnh đạo KTNN tại cuộc họp xét duyệt; thừa lệnh Tổng KTNN ký Kế hoạch kiểm toán. Sau khi Kế hoạch kiểm toán đã được chỉnh sửa, hoàn thiện, Tổng KTNN ra quyết định thành lập Đoàn kiểm toán và ra thông báo kiểm toán.

Trưởng đoàn kiểm toán tiến hành phổ biến nội dung Kế hoạch kiểm toán và cơ chế chính sách, chế độ quản lý kinh tế, tài chính, kế toán hiện hành của Nhà nước mà đơn vị được kiểm toán phải tuân thủ, để các thành viên trong Đoàn kiểm toán hiểu rõ về Kế hoạch kiểm toán và căn cứ pháp lý thực hiện cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, thông qua kết quả thống kê bảng câu hỏi khảo sát có 5/76 KTV (tương đương 7%) nhận định công tác phổ biến KHKT của Trưởng đoàn chưa đạt chất lượng và hiệu quả; thậm chí có Đoàn không phổ biến KHKT dẫn tới các Tổ kiểm toán thực hiện kiểm toán không bám sát mục tiêu, trọng yếu và nội dung kiểm toán được xác định trong KHKT của Đoàn, vì vậy dẫn tới việc triển khai, xây dựng KHKT chi tiết kém hiệu quả, do đó làm giảm chất lượng của hoạt động kiểm toán.

Từ kết quả thu được nêu trên có thể đưa ra một số nhận xét như sau:

Một là, công tác kiểm soát chất lượng và tính đầy đủ của thông tin thu thập được trong quá trình khảo sát chưa được chú trọng làm ảnh hưởng tới việc đánh giá rủi ro, xác định mục tiêu, trọng tâm kiểm toán qua đó làm ảnh hưởng đến chất lượng của KHKT.

Hai là, công tác lập, kiểm tra và xét duyệt KHKT kiểm toán chưa tốt, nhiều KHKT trình bày còn sơ sài; mục tiêu và nội dung kiểm toán chưa bám sát với nhiệm vụ kiểm toán được giao và kế hoạch tổng thể về triển khai KHKT năm được Tổng KTNN phê duyệt; phạm vi, nội dung kiểm toán không phù hợp với mục tiêu và trọng tâm kiểm toán…

Ba là, lãnh đạo đơn vị và lãnh đạo đoàn kiểm toán chưa thực hiện tốt việc quan triệt mục tiêu, yêu cầu, nội dung, phạm vi kiểm toán; quán triệt các chỉ thị của Tổng KTNN, quy định, quy chế của ngành; chưa chú trọng công tác tập huấn, trao đổi kỹ năng, phương pháp kiểm toán và cập nhật kiến thức cho thành viên của Đoàn kiểm toán.

- Đối với giai đoạn thực hiện kiểm toán

Theo kết quả thống kê bảng câu hỏi, có 30/76 KTV (tương đương 39%) phản ánh công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán của Tổ trưởng trong quá trình thực hiện kiểm toán chưa tốt: hầu hết các Tổ trưởng không hướng dẫn, giám sát KTV thực hiện các thủ tục kiểm toán, phương pháp kiểm toán để thu thập bằng chứng kiểm toán; do đó nhiều KTV không thu thập đầy đủ bằng chứng làm cơ sở pháp lý cho kết luận, kiến nghị kiểm toán và không trích dẫn bằng chứng trong tài liệu hoặc lưu trữ đầy đủ trong hồ sơ kiểm toán, thậm chí có Tổ trưởng không quan tâm đến việc kiểm tra, kiểm soát tài liệu làm việc của KTV dẫn đến KTV viết nhật ký còn sơ sài, mang tính hình thức, chống chế, có nhiều nhật kí kiểm toán (NKKT) và biên bản kiểm toán của KTV không có chữ ký xét duyệt của Tổ trưởng. Ngoài ra, công tác lập Biên bản kiểm toán và Báo cáo kiểm toán của Tổ trưởng còn nhiều hạn chế.

+ Đối với Biên bản kiểm toán: Nhiều Tổ trưởng lập Biên bản kiểm toán chưa đúng mẫu biểu quy định, phạm vi, nội dung và giới hạn kiểm toán không phù hợp với Kế hoạch kiểm toán chi tiết và Kế hoạch kiểm toán, một số Biên bản kiểm toán còn tổng hợp sai và thiếu kết quả từ Biên bản xác nhận số liệu và Nhật ký làm việc của KTV.

+ Đối với Báo cáo kiểm toán của Tổ: Khâu lập Báo cáo kiểm toán của Tổ cũng còn nhiều hạn chế, chưa hiệu quả. Nhiều Báo cáo không lập đúng mẫu biểu, mang tính hình thức, chưa nêu rõ giới hạn, phạm vi kiểm toán hoặc giới hạn, phạm vi kiểm toán không thống nhất với các tài liệu khác như: Biên bản kiểm toán, Biên bản xác nhận số liệu và tình hình của KTV, Nhật ký kiểm toán (NKKT) và Kế hoạch kiểm toán chi tiết…; số liệu kiểm toán đôi khi bị tổng hợp thiếu từ các tài liệu làm việc của KTV hoặc có kết quả không thống nhất với Biên bản kiểm toán. Một số Báo cáo không có kết luận xử lý đối với các phát hiện kiểm toán có trong biên bản của KTV hoặc kết luận, kiến nghị không phù hợp với các phát hiện kiểm toán. Nhiều Báo cáo kiểm toán còn phản ảnh thiếu hoặc sai ý kiến kết luận của lãnh đạo Đoàn hoặc lãnh đạo KTNN tại cuộc họp thông qua Dự thảo Báo cáo kiểm toán tại đơn vị. Thậm chí có Báo cáo còn sao chép Báo cáo kiểm toán tại đơn vị khác; chất lượng thấp, có nhiều sai sót về số liệu, nhận xét và đánh giá; thiếu chữ ký của Tổ trưởng, từ ngữ dùng còn cẩu thả, thiếu chau chuốt; bằng chứng kiểm toán thiếu vững chắc nên có một số kết quả kiểm toán không được lãnh đạo KTNN thông qua khi xét duyệt Báo cáo kiểm toán của Đoàn.

Từ kết quả thu được nêu trên có thể đưa ra những nhận xét như sau:

- Công tác tự kiểm tra, kiểm soát chất lượng kiểm toán của nhiều KTV chưa tốt dẫn tới còn nhiều sai sót, hạn chế trong khâu thu thập bằng chứng, viết NKKT và lập biên bản kiểm toán của KTV.

- Nhiều Tổ trưởng chưa thực sự chú trọng trong công tác kiểm tra kiểm soát KTV trong quá trình thực hiện kiểm toán cũng như tài liệu làm việc của KTV. Bên cạnh đó, khâu tổng hợp biên bản kiểm toán và Báo cáo kiểm toán của Tổ trưởng chưa tốt, dẫn đến có nhiều sai sót về số liệu làm giảm chất lượng Báo cáo kiểm toán.

- Giai đoạn lập báo cáo kiểm toán

Theo kết quả thống kê bảng câu hỏi, có 28/76 KTV (tương đương 37%) cho rằng nhiều Đoàn kiểm toán chưa thực sự chú trọng công tác soát xét chất lượng Báo cáo kiểm toán của Đoàn, còn có hiện tượng trông chờ, ỷ lại vào việc soát xét của cấp trên làm tăng khối lượng công việc kiểm soát ở cấp Lãnh đạo KTNN và suy giảm chức năng tự kiểm soát tại các Đoàn kiểm toán, do đó Báo cáo kiểm toán của Đoàn còn nhiều hạn chế về mặt nội dung và hình thức, cụ thể:

+ Thứ nhất, về nội dung Báo cáo kiểm toán: Hầu hết các Báo cáo kiểm toán chưa đưa ra được ý kiến rõ ràng và toàn diện về tính trung thực, hợp lý của các số liệu quyết toán tại đơn vị được kiểm toán; phần lớn chỉ trình bày những sai phạm, tồn tại trong công tác quản lý tài chính, kế toán được phát hiện thông qua quá trình kiểm toán.

Một số Báo cáo kiểm toán phạm vi, mục tiêu và nội dung kiểm toán chưa phù hợp với Kế hoạch kiểm toán; các số liệu, kết quả, kết luận và kiến nghị kiểm toán còn tổng hợp thiếu từ các Báo cáo kiểm toán của Tổ kiểm toán hoặc chưa kiến nghị đầy đủ, phù hợp tương ứng với kết quả kiểm toán. Trong một số trường hợp, Báo cáo kiểm toán của Đoàn chưa kiến nghị cơ quan có liên quan kiểm tra nội dung do kiểm toán phát hiện liên quan đến các năm trước.

Nhiều dự thảo Báo cáo kiểm toán chưa có sự đầu tư về thời gian và trí tuệ, thiếu tính tổng hợp, khái quát, ý kiến đánh giá, nhận xét thiếu sắc bén, thuyết phục; một số kiến nghị không có tính khả thi, thậm chí chưa phù hợp với pháp luật. Công tác kiểm soát chất lượng Báo cáo kiểm toán tại các Đoàn kiểm toán không tốt, chưa được kiểm soát kỹ lưỡng khi trình lãnh đạo KTNN phê duyệt, còn nhiều sai sót về số liệu, do đó đã gây áp lực, mất nhiều thời gian khi xét duyệt Báo cáo kiểm toán; thời gian chỉnh sửa, phát hành Báo cáo kiểm toán bị kéo dài, chất lượng Báo cáo thấp.

+ Thứ hai, về thể thức trình bày: Nhiều Báo cáo kiểm toán lập không đúng mẫu biểu quy định, trình bày còn dài dòng, chưa tập trung trình bày, trả lời những vấn đề về trọng yếu, mục tiêu và nội dung kiểm. Một số Báo cáo kiểm toán chưa được biên tập cẩn thận, còn nhiều sai sót về chính tả, văn phạm dẫn tới phải chính sửa nhiều lần và nhiều nội dung làm chậm thời gian phát hành Báo cáo so với quy định tại Luật Kiểm toán Nhà nước.

3. Giải pháp hoàn thiện công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán

- Hoàn thiện các chính sách làm cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán

Cơ sở pháp lý cho hoạt động nghiệp vụ kiểm toán là nhân tố quan trọng để hoạt động kiểm toán có thể được thực hiện tốt, đồng thời cũng chính là căn cứ thực hiện kiểm soát chất lượng kiểm toán, cơ sở pháp lý cho nghiệp vụ kiểm toán cần hoàn thiện bao gồm hệ thống chuẩn mực, quy trình, hệ thống mẫu biểu hồ sơ kiểm toán, cẩm nang kiểm toán, chính sách kiểm soát chất lượng KTV về trình độ, năng lực chuyên môn và đạo đức đạo đức nghề nghiệp, đặc biệt là các hướng dẫn kiểm toán trong từng loại hình kiểm toán...

- Các KTNN chuyên ngành/ khu vực cần thành lập Tổ kiểm soát hồ sơ sau mỗi cuộc kiểm toán

Đối với một số Đoàn kiểm toán có quy mô lớn, nội dung kiểm toán phức tạp hoặc nghi ngờ có gian lận hay có thông tin phản hồi không tốt từ phía đơn vị được kiểm toán. Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành/ khu vực Tổ kiểm soát (Tổ kiểm soát là các thành viên do Kiểm toán trưởng quyết định và trực thuộc KTNN chuyên ngành/ khu vực chủ trì cuộc toán) nhằm đảm bảo tính tuân thủ các quy định của KTNN: Chuẩn mực kiểm toán, Quy trình kiểm toán, Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn kiểm toán, quy tắc ứng xử của KTV… và hạn chế những rủi ro ảnh hưởng đến nguyên tắc độc lập của KTV trong quá trình kiểm toán.

Thời gian tiến hành kiểm soát của Tổ phải được thực hiện trước khi phát hành Báo cáo kiểm toán của Đoàn kiểm toán, hình thức kiểm soát là kiểm soát hồ sơ của Đoàn kiểm toán sau khi đã kết thúc kiểm toán tại các đơn vị.

Quá trình kiểm soát này bao gồm 03 giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị kiểm soát, giai đoạn thực hiện kiểm soát, giai đoạn tổng hợp và báo cáo kết quả kiểm soát.

- Xây dựng và ban hành Quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán

Hiện nay, KTNN chưa ban hành quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán làm cơ sở pháp lý về nghiệp vụ cho hoạt động kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán nên chưa có quy định rõ ràng về nội dung, trình tự, phương pháp và trách nhiệm kiểm soát cho từng cấp kiểm soát, ảnh hưởng đến hiệu quả kiểm soát quá trình hoạt động kiểm toán của Đoàn kiểm toán. Do đó, việc xây dựng và hướng dẫn thực hiện quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán tại Đoàn kiểm toán là rất cần thiết.

Quy chế kiểm soát ban hành nhằm chuẩn hóa thống nhất, có tính hệ thống, đồng bộ và quy định rõ phạm vi, đối tượng, nội dung và phương pháp kiểm soát chất lượng kiểm toán; đồng thời quy định nhiệm vụ và trách nhiệm kiểm soát đối với từng cấp độ.

- Hoàn thiện công tác kiểm soát chất lượng tại Đoàn kiểm toán

Công tác kiểm soát chất lượng kiểm toán của Đoàn kiểm toán chủ yếu tập trung vào các nội dung: Kỹ năng và trình độ nghiệp vụ của KTV; sự phù hợp của việc phân công nhiệm vụ cho KTV; việc thực hiện các quy chế và giám sát đối với KTV; tính khả thi của mục tiêu kiểm toán và thực hiện mục tiêu kiểm toán; việc thực hiện quy trình kiểm toán; đạo đức nghề nghiệp của KTV theo nguyên tắc: chính trực, độc lập, khách quan và bí mật nghề nghiệp...

Hình thức kiểm soát chất lượng kiểm toán được Đoàn kiểm toán áp dụng gồm: Kiểm soát chất lượng trong quá trình thực hiện kiểm toán và Kiểm soát chất lượng hồ sơ của Đoàn kiểm toán ■

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Kiểm toán Nhà nước (2012), Quy trình kiểm toán của KTNN, Quy chế tổ chức và hoạt động của Đoàn kiểm toán, Hà Nội.

2. Kiểm toán Nhà nước (2012), Báo kiểm toán, Hà Nội.

3. Kiểm toán Nhà nước (2012), Tạp chí Nghiên cứu khoa học, Hà Nội.

IMPROVING THE AUDIT QUALITY CONTROL

IN THE AUDIT DELEGATION OF THE STATE AUDIT

● MA. NGUYEN ANH HONG

Faculty of Accounting - University of Economic and Technical Industries

ABSTRACT:

The article addresses the issue of improving the quality control audit in the audit delegation of the State Audit. Content includes: (1) the need to improve audit quality; (2) Actual state of audit quality control in the audit delegation of the State Audit; (3) Complete solution.

Keywords: Quality Control, Audit Delegation, State Audit.

Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 5 + 6 tháng 4/2018 tại đây