Hoàn thiện hệ thống kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay

ThS. NGUYỄN NHƯ MẠNH (Khoa Kế toán - Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp)

TÓM TẮT:

Ở Việt Nam, hệ thống ngân hàng sau thời kỳ phát triển nhanh cả về quy mô và số lượng đã bộc lộ nhiều vấn đề về tăng trưởng nóng, mức độ rủi ro cao, trong khi tính minh bạch về hoạt động kinh doanh và các vấn đề sở hữu đã và đang gây ra những tác động tiêu cực không nhỏ đến sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế đất nước. Một trong những nguyên nhân cơ bản là do công tác kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng chưa được tổ chức một cách hiệu quả, chưa đảm bảo những nguyên tắc và yêu cầu chung trong quá trình vận hành.

Từ khóa: Kiểm toán nội bộ, kiểm toán viên, ngân hàng thương mại, đánh giá rủi ro.

I. Thực trạng hệ thống kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng thương mại

Đặc trưng hoạt động hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) là, cấu trúc tổ chức thường có quy mô lớn, nhiều chi nhánh, phòng giao dịch hoạt động trên diện rộng, nhiều nghiệp vụ kinh doanh tài chính phức tạp và không ngừng biến động, thì hoạt động kiểm toán nội bộ với NHTM trở nên vô cùng cần thiết.

1. Nội dung kiểm toán nội bộ

Trước hết, theo nghiên cứu hầu hết các ngân hàng không có thống kê cụ thể cũng như chưa có sự phân định rạch ròi về các loại hình kiểm toán nội bộ.

Trong tổng số cán bộ nhân viên ngân hàng được hỏi bất kì cho biết, 66,7% cho rằng công việc chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính, tức là đánh giá, xác nhận tính trung thực, hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài chính; Tiếp đến là kiểm toán tuân thủ 63,6%, tức là kiểm tra việc thực hiện theo các quy định của pháp luật, cũng như các quy định nội bộ của ngân hàng; Đứng thứ ba là kiểm toán hoạt động hiện đã bước đầu nhận được sự quan tâm của kiểm toán nội bộ, mặc dù về mặt bản chất thì đây mới là nội dung chính yếu, trọng tâm cần hướng đến của kiểm toán nội bộ. Trong kiểm toán hoạt động này, nếu có thì mới chỉ dừng ở chức năng kiểm tra tính hiệu lực, tức là thực hiện xác nhận hệ thống chứ chưa tiến hành phân tích được hiệu quả hay tính kinh tế của quy trình hoạt động.

Cụ thể hơn, phạm vi chủ yếu của kiểm toán nội bộ là tín dụng (chiếm 70,2%) tiếp đến là nghiệp vụ huy động vốn 69,7%. Thu hút sự quan tâm thứ ba là mảng kế toán 51,6%. Các mảng còn lại như kiểm toán mua sắm tài sản, nhân sự thì rất hiếm khi được thực hiện, đặc biệt, các ngân hàng chưa từng kiểm toán mảng công nghệ thông tin và kinh doanh vốn. Ngoài ra, bộ phận kiểm toán nội bộ cũng chưa thực hiện rà soát độc lập tính hiệu quả của khung quản trị rủi ro hoặc yêu cầu về vốn tối thiểu theo Basel II. Điều này xảy ra ngay cả với ngân hàng lớn như Agribank theo kết quả công bố Kiểm toán Nhà nước.

2.Phương pháp tiếp cận trong kiểm toán nội bộ

Các ngân hàng chủ yếu sử dụng phương pháp định hướng theo rủi ro tương ứng với quy định của pháp luật hiện hành. Trước khi tiến hành kiểm toán, kiểm toán nội bộ đánh giá và phân loại các rủi ro, từ đó định hướng kiểm toán theo mức độ rủi ro: những nghiệp vụ và các đơn vị, bộ phận điều hành, tác nghiệp có rủi ro cao, phải được kiểm toán trước và ít nhất mỗi năm một lần; trong một giai đoạn nhất định từ 3 đến 5 năm, phải đảm bảo tính toàn diện, sao cho tất cả các quy trình nghiệp vụ, các đơn vị, bộ phận phải được kiểm toán; các quy trình, đơn vị, bộ phận được đánh giá là có rủi ro trung bình ít nhất 2 năm kiểm toán một lần, rủi ro thấp ít nhất 5 năm kiểm toán một lần. Căn cứ vào kết quả phân tích và đánh giá rủi ro, Trưởng kiểm toán nội bộ làm việc với Ban kiểm soát, Tổng giám đốc và Hội đồng thành viên trong quá trình lập kế hoạch kiểm toán hàng năm.

Nhưng trên thực tế cách mà các kiểm toán viên thường tiếp cận kiểm toán là phương pháp “truyền thống”, tức là coi việc phát hiện sai phạm, kiểm tra tính tuân thủ của đối tượng được kiểm toán là mục tiêu số một, trong đó thước đo là các quy định, văn bản, quy chế, thông tư, hướng dẫn của Ngân hàngNhà nước và nội bộ ngân hàng… Cách tiếp cận hiện đại, coi rủi ro để đạt được mục tiêu là điểm xuất phát, từ đó phân tích các chính sách, thủ tục, quy trình có hiệu quả, hiệu lực hay không, tìm hiểu gốc rễ của vấn đề… thì ít được áp dụng. Điều này thể hiện khi gần như 100% số cho rằng hiện nay mục đích của kiểm toán nội bộ chỉ tập trung vào phát hiện các sai phạm, 100% coi các quy định và thủ tục là tiêu chuẩn, xem xét tính đầy đủ trong thực hiện nghiệp vụ. 100% cũng đồng ý rằng cách làm việc của kiểm toán là chưa nhận xét về tính hợp lý, hiệu quả của quy trình.

3. Quy trình kiểm toán nội bộ

Trong phần quy trình này, kiểm toán nội bộ tại các ngân hàng bộc lộ nhiều điểm còn hạn chế. Điều này được trình bày cụ thể qua từng bước của quy trình.

Bước 1: Lập kế hoạch kiểm toán năm

Việc lập kế hoạch tiến hành 60% dựa vào đánh giá rủi ro nhưng việc đánh giá rủi ro này chưa được quy định thành văn bản cụ thể.Việc đánh giá rủi ro chủ yếu xuất phát từ xét đoán chủ quan của bản thân bộ phận kiểm toán (95,5%) và thường xuyên hơn cả là việc kế thừa kết quả khảo sát, đánh giá của bộ phận ALCO (Ủy ban quản lý rủi ro, từ đó có những điều chỉnh, xét đoán cụ thể của bộ phận. Đồng thời chưa tiếp cận với đánh giá rủi ro một cách khoa học, hệ thống mà là kết hợp cả định tính và định lượng.

Bước 2: Thực hiện kiểm toán

Việc thực hiện kiểm toán nội bộ còn nhiều điểm chưa được các ngân hàng chú trọng.

Thứ nhất, hiện nay, ngân hàng cũng chưa có phần mềm chuyên dụng phục vụ việc quản lý chu trình làm việc hoặc phân tích dữ liệu dành riêng cho kiểm toán nội bộ, mọi thông tin muốn thu thập sẽ được chiết xuất từ phần mềm của ngân hàng.

Thứ hai, việc sử dụng sổ tay kiểm toán nội bộ theo quy định vẫn tồn tại có ngân hàng triển khai, có ngân hàng không triển khai. Các ngân hàng lớn chủ yếu đã áp dụng nhưng tại các ngân hàng nhỏ thì còn thiếu. Điều này khiến kiểm toán viên thiếu công cụ làm việc.

Thứ ba, đa phần kiểm toán viên nội bộ vẫn thực hiện kiểm toán riêng lẻ, tức là kiểm toán cụ thể từng hợp đồng, từng giao dịch để kết luận xem số liệu kế toán có trung thực không hoặc có kiểm toán hệ thống thì cũng ở mức độ rà soát từng hồ sơ xem có tuân thủ đúng quy trình hay không chứ khá hạn chế khi thực hiện phân tích hệ thống để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ. Bởi vậy, kết quả làm việc của hai bộ phận kiểm toán và kiểm tra kiểm soát nội bộ có nhiều nét tương đồng, đôi khi còn bị gộp chung vào nhau, không thấy được sự khác biệt rõ rệt.

Thứ tư, các khám phá, phát hiện của kiểm toán nội bộ thông qua các thử nghiệm kiểm soát và thử nghiệm căn bản mới chỉ ra các sự kiện mang tính chất bề nổi và khá rời rạc, thường tập trung vào tín dụng, kế toán và nhân sự. Bản thân ngân hàng khi báo cáo cũng gộp kết quả làm việc của hai bộ phận kiểm toán kiểm soát nội bộ (KTKSNB) và kiểm toán nội bộ (KTNB) với nhau vì không thấy rõ sự khác biệt.

Bước 3: Lập báo cáo kiểm toán

Lập báo cáo kiểm toán là khâu rất quan trọng trong quy trình kiểm toán. Nhưng theo nghiên cứu, kiểm toán viên chỉ dùng ở việc đưa ra kết luận mà chỉ có 9% xem xét nguyên nhân những sai phạm và rủi ro có thể xảy ra.

Đồng thời, trong báo cáo kiểm toán đang tập trung nêu ra các sai phạm cụ thể, đánh giá tính trung thực của thông tin 100% hoặc chỉ ra các sai phạm liên quan đến tuân thủ các quy định của pháp luật 82%. Phần rất quan trọng là đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ, hệ thống quản lý rủi ro, khung quản trị của ngân hàng còn khá hạn chế (51%).

Bước 4: Giám sát sau kiểm toán

Bộ phận kiểm toán có thường xuyên giám sát các kiến nghị của mình từ năm trước đối với đơn vị để thấy được tiến độ thực hiện xử lý, sửa chữa các sai phạm. Việc thực hiện các khuyến nghị của đơn vị không phải là ngay lập tức, nhưng cũng không quá trễ, thường diễn ra trong khoảng 1 năm kể từ ngày báo cáo kiểm toán được ký chấp nhận. Ngoài ra, bộ phận kiểm toán nội bộ cũng chưa thực hiện công tác “xác nhận sự hài lòng khi thực hiện công việc” với các đối tượng có liên quan để đảm bảo chất lượng hoạt động kiểm toán nội bộ.

Có thể nói, công tác kiểm toán nội bộ chậm đổi mới trong các năm qua, không có nhiều cải tiến để phát huy hết lợi ích đóng góp cho sự phát triển của ngân hàng.

II. Giải pháp hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ tại ngân hàng

Một là, hoàn thiện nội dung kiểm toán.

Bộ phận kiểm toán nội bộ không nên dừng lại ở kiểm toán tuân thủ hay kiểm toán báo cáo tài chính mà tiến tới cần tập trung hơn vào kiểm toán hoạt động nhằm đánh giá hiệu quả các quy trình, khung quản trị ngân hàng, quản lý rủi ro và hệ thống kiểm soát nội bộ. Độ bao phủ của kiểm toán nội bộ cần mở rộng ở nhiều lĩnh vực theo khuyến nghị của Ủy ban Basel và IIA, đặc biệt cần quan tâm tới các nghiệp vụ nhiều rủi ro và chưa từng được kiểm toán như công nghệ thông tin, kinh doanh vốn, đầu tư tài chính, từng bước tích hợp thêm các nội dung sau vào chương trình, phạm vi kiểm toán:

- Rà soát độc lập khung quản trị rủi ro

- Đánh giá độc lập chức năng tuân thủ

- Đánh giá tính chính xác và độ tin cậy của sổ sách kế toán và các báo cáo kế toán tài chính quản trị

- Đánh giá hiệu quả và mức độ tiết kiệm của nghiệp vụ ngân hàng

Hai là, hoàn thiện phương pháp tiếp cận kiểm toán.

Kiên quyết thực hiện phương pháp tiếp cận kiểm toán định hướng rủi ro thay thế cho phương pháp tuân thủ bấy lâu nay được áp dụng. Phương pháp này sẽ được cụ thể hóa xuyên suốt từ khâu lập kế hoạch kiểm toán năm, cho đến lập kế hoạch cho từng cuộc kiểm toán, chương trình kiểm toán… Tuy nhiên, muốn thực hiện kiểm toán định hướng rủi ro thì phải có nền tảng, cơ sở, cấu phần đánh giá rủi ro mạnh mẽ, vững chắc.

Trước hết, KTNB cần phải xác định, phân tích, đo lường, đánh giá rủi ro và xây dựng hồ sơ rủi ro cho từng đối tượng được kiểm toán. Hồ sơ này bao gồm toàn bộ các rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, cũng như tác động có thể có của những rủi ro này tới hoạt động của ngân hàng và khả năng xảy ra các rủi ro. Trên cơ sở việc đánh giá về tác động và khả năng xảy ra các rủi ro, từng đối tượng (chi nhánh/nghiệp vụ/quy trình) sẽ được phân loại theo mức độ rủi ro cao, trung bình hoặc thấp.

KTNB thảo luận với Ban Kiểm soát và Bộ phận Quản lý rủi ro của ngân hàng về tỷ lệ dự kiến số đơn vị nằm trong từng mức rủi ro cao, trung bình, thấp trên cơ sở dự đoán và đánh giá của Bộ phận Quản lý rủi ro, các bên hữu quan và ban lãnh đạo dựa trên mục tiêu kinh doanh. Ngoài ra, cũng nên tham khảo kinh nghiệm kiểm toán những năm trước đây để xác định khoảng điểm bao nhiêu thì được xếp vào các mức rủi ro tương ứng. Quan điểm này cũng cần rà soát lại thường xuyên, tối thiểu 3 năm một lần và trong các trường hợp có biến động lớn về rủi ro trọng yếu của ngân hàng.

Ba là, hoàn thiện quy trình kiểm toán nội bộ.

Nhằm đảm bảo hoạt động KTNB đáp ứng được mong muốn của các bên hữu quan và luôn bám sát danh mục rủi ro của ngân hàng, được tiến hành một cách hiệu quả với chi phí hợp lý, công tác lập kế hoạch kiểm toán hàng năm đóng vai trò rất lớn. Đánh giá rủi ro là bước quan trọng đầu tiên cho quy trình lập kế hoạch kiểm toán, làm cơ sở cho việc thực hiện hoạt động kiểm toán trong năm tài chính. Dựa trên kết quả đánh giá rủi ro, KTNB lập kế hoạch kiểm toán, trong đó xác định đối tượng, tần suất và nhân sự cho các cuộc kiểm toán. Những quy trình nghiệp vụ được đánh giá là có mức rủi ro cao cần được kiểm toán thường xuyên, ví dụ ít nhất một lần trong một năm.

Bên cạnh đó cần thực hiện chuẩn hóa quy trình. Kiểm toán viên nội bộ căn cứ vào kế hoạch và chương trình kiểm toán để thực hiện kiểm toán bằng cách phối kết hợp các thử nghiệm kiểm toán hệ thống, kiểm toán riêng lẻ cùng với các kỹ thuật nghiệp vụ để thu thập bằng chứng kiểm toán.

Bốn là, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kiểm toán.

Để thực hiện mục tiêu trở thành ngân hàng hiện đại, hội nhập quốc tế thì các ngân hàng cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào các hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động KTNB nói riêng. Cần sử dụng các phần mềm chuyên dụng vào công tác KTNB, có thể thuê tư vấn để xây dựng hoặc mua ngoài các phần mềm chuyên dụng này. Hiện nay có nhiều phần mềm hỗ trợ cho công tác KTNB đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới như: TeamMate, phần mềm Quản lý kiểm toán, phần mềm trợ giúp kiểm toán (CAATs),... Các phần mềm này sẽ hỗ trợ các KTV trong việc lập kế hoạch kiểm toán, đánh giá rủi ro, chọn mẫu kiểm toán, lập báo cáo kiểm toán, tìm kiếm thông tin,... Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác KTNB sẽ giúp các KTVNB hoàn thành công việc nhanh chóng, chính xác và hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Giáo trình Kiểm toán ngân hàng - Học viện Ngân hàng.

2. Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm soát, kiểm toán nội bộ nâng cao - Ngân hàng Nhà nước.

3. Quy chế về tổ chức và hoạt động kiểm toán nội bộ.

4. Đề tài Nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ các NHTM Việt Nam theo các chuẩn mực quốc tế về thực hành kiểm toán nội bộ của hiệp hội kiểm toán nội bộ quốc tế (IIA). Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.

PERFECTINIZING INTERNAL

AUDIT SYSTEM IN COMMERCIAL BANKS

MA. NGUYEN NHU MANH

Faculty of Accounting

University of Economic and Technical Industries

ABSTRACT:

In Vietnam, the banking system after the rapid development in terms of size and quantity has exposed many issues of hot growth and high risk while business transparency and ownership issues have been causing considerable negative impacts on the stability and growth of the country's economy. One of the fundamental reasons is that internal audit work at banks has not been effectively organized and does not guarantee the general principles and requirements in operation.

Keywords: Internal audit, auditor, bank, risk assessment ...

Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 06 tháng 05/2017 tại đây