TÓM TẮT:

Quyền sở hữu trí tuệ đang khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình hình thành một nền kinh tế bền vững và phát triển toàn diện. Vấn đề quyền sở hữu trí tuệ được Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa vào vòng đàm phán Uruguay năm 1986 với lý do quyền sở hữu trí tuệ không phải là một vấn đề tách rời với hoạt động thương mại, mà có quan hệ chặt chẽ với thương mại và phát triển kinh tế. Những quy định của pháp luật vẫn còn quá ít so với tầm quan trọng của việc quản lý tập thể quyền tác giả (QLTT QTG), chưa thể phát huy được vai trò của tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả đối với việc phát triển sở hữu trí tuệ, đặc biệt là việc thiết lập một mô hình vận hành cho phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc. Bài báo đưa ra thực trạng mô hình quản lý tập thể quyền tác giả tại Việt Nam hiện nay và đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thiện mô hình trên.

Từ khóa: quản lý tập thể quyền tác giả, quyền tác giả, quyền liên quan.

 1. Tổng quan về quản lý tập thể quyền tác giả

1.1. Lịch sử hình thành

Các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả ra đời lần đầu tiên tại Pháp vào thế kỷ XVIII. Lúc ban đầu, chức năng của các tổ chức này không phải là quản lý tập thể, mà chính là việc đấu tranh để được công nhận và tôn trọng một cách đầy đủ các quyền của tác giả. Ban đầu Beaumarchais - nhà biên kịch là người đầu tiên dẫn dắt các tranh chấp pháp lý chống lại những nhà hát tại Pháp để yêu cầu họ thừa nhận và tôn trọng các quyền nhân thân và quyền kinh tế của tác giả. Kết quả thắng lợi của những hoạt động này là việc thành lập Bureau de législation dramatique (Văn phòng Pháp luật kịch nghệ) vào năm 1777. Sau này, văn phòng được đổi thành Société des auteurs et compositeurs dramatique (SACD) - Hiệp hội của các tác giả và các nhà biên kịch. Nửa thế kỷ sau, ba nhà văn nổi tiếng thời bấy giờ là Honoré de Balzac, Alexandre Dumas, Victor Hugo đã dẫn đầu các nhà văn Pháp tiến hành các hoạt động tương tự trên lĩnh vực văn học và thành lập Hiệp hội các nhà sáng tác văn học, với phiên họp đầu tiên vào cuối năm 1837.

Tuy nhiên, những hiệp hội này chưa mang đầy đủ các tính chất của một tổ chức quản lý tập thể hoàn thiện. Trong lịch sử quản lý tập thể đã ghi nhận sự phát triển một cách toàn diện của quản lý tập thể chính thức là sau năm 1847 khi hai nhà soạn nhạc là Paul Henrison, Victor Parizot và một nhà văn Ernet Bourget nhận thấy một sự bất công rằng họ phải trả tiền cho chỗ ngồi và đồ ăn của họ tại “Ambassadeurs” - một cửa hàng cà phê trên đại lộ Champs - Elysée nổi tiếng của Pháp, trong khi không ai trả tiền cho việc tác phẩm của họ đang được dàn nhạc biểu diễn tại đây. Cả 3 người quyết định không thanh toán tiền cho bữa ăn nếu như họ chưa được thanh toán cho việc tác phẩm của họ đang được sử dụng. Vụ kiện đã được giải quyết và theo đó, các tác giả đã giành chiến thắng to lớn, ông chủ của cửa hàng cà phê này đã phải trả một khoản tiền thù lao lớn, đồng thời mở ra cho các tác giả (các nhà soạn nhạc và soạn lời) của các tác phẩm phi nhạc kịch một khả năng thu được tiền từ các cửa hàng, quán cà phê tương tự. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, các cá nhân hoàn toàn không thể nào tự thực hiện được quyền này. Vì vậy, vào năm 1850, một tổ chức quản lý tập thể toàn diện đã thay thế cho SACD và vẫn hoạt động tốt đem đến nhiều lợi ích to lớn cho các thành viên, đó là SACEM - Tổ chức của các tác giả, nhà soạn nhạc, soạn lời âm nhạc. 

Về sau này, với sự phát triển của ngành Luật Sở hữu trí tuệ, quyền tác giả và quyền liên quan được công nhận và quản lý tập thể cũng được mở rộng một cách toàn diện đối với cả quyền tác giả và quyền liên quan. Tại các quốc gia khác cũng hình thành các tổ chức quản lý tập thể có lịch sử lâu đời và tên tuổi như GEMA của Đức, ASCAP của Mỹ, PRS của Anh, SUSA của Thuỵ Sỹ,v.v...

1.2. Khái niệm về quản ý tập thể quyền tác giả

Quản lý tập thể là kinh nghiệm lịch sử của nhân loại, bắt nguồn từ các nước phát triển, đã mở đường để đạt được sự hài hòa về lợi ích trong quan hệ giữa Người sáng tạo - Nhà sử dụng - Công chúng hưởng thụ.

Về góc độ kinh tế: Một tác giả không thể có khả năng giám sát tất cả các loại hình sử dụng tác phẩm của mình trong đời sống hàng ngày, đồng thời cũng không thể tự mình liên lạc đến từng đài phát thanh hay truyền hình để thương lượng thù lao và ngược lại, một tổ chức phát sóng sẽ kém hiệu quả nếu tự mình tìm kiếm sự cho phép của tất cả các tác giả cho việc sử dụng có bản quyền.

Về góc độ bảo vệ quyền: Luôn có một sự liên kết giữa chủ thể quyền sở hữu trí tuệ lại với nhau, hình thành một tổ chức vừa bảo vệ tác phẩm, cung cấp biểu phí, tiết kiệm thời gian và tạo tiếng nói cho tập thể tác giả đối với cộng đồng xã hội. Sự liên kết này nhằm đảm bảo quyền lợi khi có những tranh chấp pháp lý giữa chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với các tổ chức biểu diễn sử dụng tác phẩm hay cơ quan công quyền.

Về góc độ quản lý nhà nước: Việc hình thành tổ chức quản lý quyền cho tập thể tác giả là công cụ thực thi pháp luật góp phần chia sẻ và giảm bớt gánh nặng cho Nhà nước đối với những công việc vượt quá hoạt động quản lý của các cơ quan chức năng có thẩm quyền.

Từ những yêu cầu thực tiễn trên cho thấy việc hình thành một tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả là hệ quả tất yếu, phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng trên, nhằm bảo vệ toàn vẹn tác phẩm và thu lợi nhuận vật chất xứng đáng với giá trị của nó, đồng thời phục vụ lợi ích cho các chủ thể quyền và góp phần bảo đảm thực thi một cách có hiệu quả quyền tác giả theo đúng pháp luật.

Như vậy, "Quản lý tập thể là việc thực hiện quyền tác giả và quyền liên bởi các tổ chức đại diện và vì quyền lợi của chủ sở hữu".

Trong cơ cấu của một tổ chức quản lý tập thể, chủ sở hữu quyền ủy quyền cho các tổ chức quản lý tập thể giám sát việc sử dụng tác phẩm của họ, thương lượng với những người sử dụng tiềm năng, cấp phép cho họ với mức thù lao hợp lý dựa trên một hệ thống biểu giá và theo những điều kiện thích hợp, thu tiền thù lao, và phân bổ khoản tiền ấy cho các chủ sở hữu quyền. Lợi ích mà mô hình quản lý tập thể không những bảo vệ quyền lợi chủ sở hữu, hệ thống quản lý tập thể cũng đem lại nhiều lợi ích cho người sử dụng. Đồng thời, do quản lý tập thể đơn giản hóa các cuộc thương lượng, giám sát sử dụng và thu phí, người sử dụng sẽ được khai thác tác phẩm với chi phí giao dịch thấp hơn, được nhiều lợi ích hơn. Tổ chức đại diện cho tập thể quyền tác giả đóng vai trò thúc đẩy lao động sáng tạo, giảm thiểu chi phí thể hiện sự chuyên trách, phân công lao động xã hội hiệu quả.

1.3. Các mô hình quản lý tập thể quyền tác giả

Tùy vào tiến trình phát triển và yêu cầu của mỗi quốc gia áp dụng khác nhau mà cách thức tổ chức của mỗi tổ chức quản lý tập thể cũng khác nhau. Các mô hình tổ chức quản lý tập thể hình thành từ những yêu cầu thực tiễn của xã hội, từ những bước đầu quản lý truyền thống cho đến hình thành các tổ chức chuyên nghiệp mang đầy đủ các chức năng, không chỉ giới hạn trong mỗi quốc gia mà hình thành mạng lưới quản lý rộng khắp toàn thế giới. Theo tổng kết của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, một số mô hình quản lý tập thể hiện có tại các quốc gia như sau:

  • Mô hình các tổ chức quản lý tập thể truyền thống

Bước đầu tiến trình hình thành các tổ chức quản lý đại diện tập thể quyền tác giả, các tổ chức hoạt động theo nguyên tắc thay mặt các thành viên đã ủy thác quyền thực hiện đàm phán, thỏa thuận về điều kiện sử dụng và cấp phép sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng; thu tiền sử dụng và phân phối lại cho các thành viên. Theo mô hình này, các thành viên không trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, thu và phân phối tiền sử dụng, nhưng được hưởng lợi từ việc phân phối lại của tổ chức quản lý tập thể. Ở các nước đang phát triển, sơ khai hình thành nên các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả thường áp dụng mô hình truyền thống lấy những hợp đồng ủy quyền làm cơ sở, nền tảng pháp lý cho việc thực thi việc đại diện quản lý các tác phẩm và thu phí tác quyền. Quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam đã xác định rõ tính chất một tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả của chúng ta hiện nay còn gọi là tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan mang nội hàm của cách quản lý truyền thống.

  • Mô hình quản lý tập thể là trung tâm cấp phép sử dụng

Hạn chế lớn nhất của mô hình truyền thống là việc các thành viên không trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, hạn chế quyền thành viên của tác giả tác phẩm. Để cải thiện vấn đề trên, mô hình kiểu trung tâm cấp phép hình thành, hội viên thuộc mô hình này vẫn tham gia vào việc đưa ra các điều kiện sử dụng tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng của mình trong quá trình đàm phán, tuy nhiên việc đàm phán phải thực hiện theo đúng quy định và điều lệ của tổ chức. Tổ chức đại diện tập thể loại này đóng vai trò như một đại lý thu - chi cho các chủ sở hữu là hội viên, đại biểu như Đức, Hàn Quốc.

  • Mô hình tổ chức quản lý tập thể một cửa

Mô hình này mang tính cấp tiến nhất cho tổ chức quản lý tập thể quyền, đặc trưng là một loại hình này là liên hiệp các tổ chức quản lý tập thể riêng rẽ, tập trung việc cấp phép sử dụng từ các nguồn dữ liệu về tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, chương trình phát sóng của các tổ chức quản lý tập thể khác nhau mở rộng phạm vi của tổ chức. Tính cấp tiến thể hiện hoạt động cấp phép tập trung vào một đầu mối, công việc sẽ thuận lợi, nhanh chóng và dễ dàng cho bên sử dụng.

2. Mô hình quản lý tập thể quyền tác giả tại Việt Nam

Theo các quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay, chúng ta chưa có bất kỳ một quy định nào của Luật Sở hữu trí tuệ hay Luật Dân sự thừa nhận sự tồn tại của một tổ chức quản lý tập thể hoàn thiện, đồng thời cũng chưa có một quy định nào thừa nhận khả năng thu tiền bản quyền đối với toàn bộ số tác phẩm của một quốc gia. Vì vậy, tại Việt Nam, các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả chỉ có thể thực hiện mô hình cấp phép dựa trên cơ sở giấy phép tự nguyện, quản lý tập thể kiểu truyền thống - tức là dựa trên cơ sở những hợp đồng ủy thác cụ thể, với những tác phẩm cụ thể.

Bởi lẽ hiện nay, nhận thức chung của đa số các chủ sở hữu quyền về giá trị tài sản trí tuệ mà tác giả sáng tạo vẫn còn rất thấp, các tổ chức QLTT QTG chưa đủ hoàn thiện bởi nhiều yếu tố. Do vậy, việc tiếp tục duy trì cơ chế quản lý tập thể thông qua cơ chế này phù hợp với tiến trình phát triển của môi trường sở hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay.

Hiện nay, theo quy định về việc kiểm tra đánh giá các tổ chức ĐDTT QTG được quy định tại điểm c khoản 3 điều 56 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005: “c) Báo cáo theo định kỳ và đột xuất về hoạt động đại diện tập thể cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền;”. Đồng thời, khoản 2 và khoản 4 Điều 11 Nghị định số 85/2011 NĐ-CP quy định: “2. Trong trường hợp tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng có liên quan đến quyền và lợi ích của nhiều tổ chức đại diện tập thể được ủy quyền đại diện cho các quyền, nhóm quyền khác nhau, các bên có thể thỏa thuận để một tổ chức thay mặt đàm phán cấp phép sử dụng, thu và phân chia tiền, báo cáo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trước khi thực hiện.

4. Các tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan phải thực hiện chế độ Báo cáo gửi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính bao gồm các nội dung: sửa đổi, bổ sung Điều lệ, quy chế hoạt động; thay đổi nhân sự lãnh đạo; tham gia các tổ chức quốc tế; các hoạt động đối ngoại khác; biểu giá, phương thức thanh toán nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất; chương trình kế hoạch dài hạn và hàng năm; tình hình hoạt động, ký hợp đồng ủy quyền, hợp đồng cấp phép sử dụng; hoạt động thu, mức thu, phương thức phân phối; cách thức thực hiện việc phân phối tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất; các hoạt động liên quan khác”.

 Bên cạnh việc áp dụng kiểu mô hình quản lý tự do truyền thống, thực tế các cơ chế giám sát hiện tại còn rất lỏng lẻo và thiếu các quy định chi tiết.

3. Kiến nghị hoàn thiện mô hình quản lý tập thể quyền tác giả tại Việt Nam

3.1. Cơ chế giám sát chặt chẽ

Tiến trình phát triển cho phù hợp với việc hội nhập kinh tế quốc tế, nếu chỉ dựa vào các hợp đồng ủy thác riêng biệt sẽ không thể đẩy mạnh sự phát triển của quản lý tập thể nói riêng và lĩnh vực quyền tác giả, quyền liên quan nói chung. Do vậy, trên tiến trình hoàn thiện quản lý tập thể quyền tác giả, khi tổ chức quản lý tập thể đã đi vào ổn định và có những định hướng đúng đắn về cơ cấu và tầm nhìn chiến lược, các cơ quan nhà nước nên xem xét việc ban hành và cấp một giấy phép độc quyền cho các tổ chức quản lý tập thể để hỗ trợ những tổ chức này và dần chuyển sang phương pháp “giấy phép luật định”.

Các quy định pháp luật hiện tại đã hình thành một cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các tổ chức quản lý tập thể. Điều này đem đến nhiều lợi thế cho các tổ chức quản lý tập thể. Tuy nhiên, trong tương lai, theo xu hướng tất yếu, khi các tổ chức quản lý tập thể nhận được thẩm quyền cấp giấy phép, thì việc giám sát của cơ quan nhà nước là tối cần thiết, để hạn chế tình trạng độc quyền trên thực tế của các tổ chức quản lý tập thể và thúc đẩy sự cạnh tranh lành mạnh.

Vì vậy, thiết nghĩ trong thời gian tới, các cơ quan nhà nước cần có cơ chế giám sát chặt chẽ hoạt động của tổ chức quản lý tập thể. Đặc biệt là đối với các biểu giá trong lĩnh vực âm nhạc và đó chính là một trong những yếu tố tác động rất nhiều đến thị trường sử dụng tác phẩm âm nhạc. Biểu giá không phù hợp sẽ hạn chế quyền tiếp cận tác phẩm của các đơn vị sử dụng và qua đó cộng đồng cũng không được thụ hưởng những tác phẩm có chất lượng. Khi đó, tổ chức quản lý tập thể sẽ không có được các hợp đồng cấp phép sử dụng và vì vậy sẽ không thu được tiền bản quyền, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của các chủ sở hữu quyền.

3.2. Nâng cao vị thế tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả

Một tổ chức quản lý tập thể thực sự không chỉ là một bộ máy thu – chi, mà còn tích cực thúc đẩy quyền lợi tinh thần của chủ sở hữu quyền. Nó có mục tiêu chung rõ ràng, nhằm đến một sự thừa nhận về mặt xã hội và pháp lý tốt hơn đối với các quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên, thúc đẩy sự sáng tạo của thành viên. Mặt khác, nó còn đáp ứng yêu cầu mới về việc ngày càng có nhiều sản phẩm đa phương tiện được sáng tạo, bao gồm những sản phẩm có hoặc do nhiều tác phẩm tạo thành.

Điểm khác biệt lớn nhất của quản lý tập thể so với trung tâm cấp phép kiểu trung gian chính là yếu tố “quản trị”, sau lưng nó là sự quản trị thật sự chứ không chỉ là một cơ quan được ủy quyền cung cấp dịch vụ. Hệ thống cấp phép kiểu trung gian chỉ là một thực thể đứng ra với tư cách đại diện, thực hiện công việc được xác định của những chủ thể trao quyền. Trong khi đó, quản lý tập thể được hình thành với một tập thể quản trị thực sự, thiết lập một số cơ quan thường trực chuyên làm các nhiệm vụ được chính tập thể đó phân cấp. Có thể hình dung: “cấp phép kiểu trung gian” như một tổ chức để thực hiện “dịch vụ” thu và cấp tiền bản quyền cho các chủ sở hữu quyền; còn “quản lý tập thể” là một tổ chức như một "hội đồng quản trị" thực hiện các công việc của chủ sở hữu” trong công ty, đại diện tiêu biểu ở các quốc gia như Pháp, Mỹ,...

Vì lẽ đó, trong quá trình chuyển đổi tất yếu từ dịch vụ thu cấp sang kiểu quản trị quyền, tác giả kiến nghị cần nâng cao vai trò, địa vị pháp lý của tổ chức đại diện quyền tác giả, cụ thể:

- Tôn trọng quyền của tác giả/chủ sở hữu tác phẩm trong việc cấp phép cho các chủ thể sử dụng, qua đó đề cao quyền đại diện và quản lý cấp phép sử dụng của các tổ chức quản lý tập thể quyền. Ban hành quy định về chế tài các hành vi vi phạm quyền tác giả, loại bỏ các quy định "mập mờ".

- Thiết lập quy chế chung cho toàn bộ tổ chức quản lý, phân định cụ thể vai trò, chức năng của các tổ chức quản lý tập thể quyền trong từng lĩnh vực nhất định, tránh chồng lấn.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Quốc hội (2010). Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi bổ sung 2010).
  2. Chính phủ (2006). Nghị định số 100/2006 NĐ-CP, ngày 21/9/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.
  3. Chính phủ (2011). Nghị định số 85/2011/NĐ-CP ngày 20/9/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan.
  4. TRIPS (1994). Thỏa thuận TRIPS(1994) về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
  5. WIPO (1996). Hiệp ước của WIPO (1996) về quyền tác giả (WCT).
  6. WIPO (1996). Hiệp ước của WIPO (1996) về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT).
  7. WIPO (2006). Cẩm nang sở hữu trí tuệ. WIPO xuất bản, Switzerland.
  8. Mihály Ficsor (2006). Quản lý tập thể quyền tác giả và quyền liên quan. Cục Bản quyền tác giả Việt Nam, Hà Nội.
  9. Vũ Thị Thanh Tú (2010). Tổng quan về quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan - Một số đối chiếu với quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan ở các nước phát triển. Chương trình nghiên cứu do Wallonie - Bruxelles International tài trợ.
  10. Kamil Idris (2007). Sở hữu trí tuệ - Một công cụ đắc lực để phát triển kinh tế. WIPO.
  11. Vũ Mạnh Chu (2008). Chuyên đề về vấn đề Tổ chức quản lý tập thể. Trang thông tin Cục Bản quyền tác giả Việt Nam.
  12. Cục Bản quyền tác giả Việt Nam (2017). Mô hình quản lý tập thể quyền của Thụy Điển.
  13. Bùi Nguyên Hùng (2009). Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khai thác, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan ở nước ta hiện nay. Chuyên đề số 6, Đề tài NCKH về tài sản ảo, Ủy ban Kinh tế Quốc hội.
  14. Mạc Minh Quang (2007). Nâng cao năng lực của các cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực xử lý hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Luận văn Thạc sĩ Quản lý Khoa học và Công nghệ, VNU.
  15. Phó Đức Phương (2015). Thực thi luật quyền tác giả hợp lý trong môi trường số và phương hướng bảo hộ nội dung trên truyền hình. Bài phát biểu trong hội thảo doTrung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam tổ chức.
  16. Marybeth Peter (2019), Thách thức về vấn đề bản quyền trong thời đại kỹ thuật số. Cục Bản quyền Hoa Kỳ. https://investip.vn/vi/thach-thuc-ve-van-de-ban-quyen-trong-thoi-dai-ky-thuat-so/
  17. Prof Dr Daniel  Gervais. (2010). Collective management copyright and related rights. The UK: Kluwer Law International.
  18. WIPO. (2004). WIPO Intellectual Property Handbook: Policy, Law and Use. WIPO: Switzerland.

 

IMPROVING THE EFFECTIVENESS OF VIETNAM’S MODEL ON COLLECTIVE MANAGEMENT OF COPYRIGHT

Master. VO ANH PHUC

Faculty of Management and International Economics, Lac Hong University

ABSTRACT:

The important role of intellectual property rights in the process of establishing a sustainable and comprehensive development economy has been confirmed. The intellectual property rights were mentioned and negotiated in the Uruguay Round which conducted within the framework of the General Agreement on Tariffs and Trade (GATT) in 1986 as the intellectual property rights are not separate from commercial activities but rather have a close relationship with the development of trade and economy. Vietnam’s regulations on collective management of copyright still have shortcomings and Vietnam lacks an operating mechanism on intellectual property rights which is suitable to the country’s international integration process. This paper presents the current model of Vietnam on collective management of copyright and proposes some solutions to improve the effectiveness of this model.

Keywords: collective management of copyright, copyright, related rights.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, 

Số 11, tháng 5 năm 2021]