Kiến tạo động lực tăng trưởng bền vững trong lĩnh vực Công nghiệp Việt Nam

Phát triển bền vững lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ giai đoạn tới phải được hiểu là tăng cường năng lực tự cường, tiến tới gia tăng tự chủ thông qua việc chiếm lĩnh các công đoạn, phân khúc có giá trị gia tăng cao trong chuỗi sản xuất toàn cầu đi đôi với bảo tồn tài nguyên, bảo vệ môi trường sống.

Phát triển bền vững ngành Công Thương là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: Đến năm 2025, là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Kiến tạo động lực tăng trưởng mới của ngành Công nghiệp Việt Nam theo quan điểm phát triển bền vững gồm tăng cường năng lực tự cường, tiến tới tự chủ cao thông qua việc chiếm lĩnh công đoạn có giá trị gia tăng cao trong chuỗi sản xuất toàn cầu đi đôi với bảo tồn tài nguyên, bảo vệ môi trường sống là một trong nhân tố quan trọng đưa công nghiệp Việt Nam vượt qua những tồn tại, nguy cơ, tiếp tục là đầu tàu dẫn dắt sự phát triển của nền kinh tế.

Động lực về đổi mới sáng tạo

Thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khu vực công nghiệp, lấy động lực của tăng trưởng là đổi mới sáng tạo song hành cùng với việc và lấy sự phát triển của từng ngành công nghiệp làm nền tảng để thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ. Cần thiết phải lựa chọn ngành/phân ngành của ngành công nghiệp ưu tiên đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, xây dựng hiệu ứng lan tỏa. Huy động, tập trung nguồn lực cho nghiên cứu và phát triển công nghệ thuộc lĩnh vực ưu tiên với phương châm đổi mới sáng tạo xuất phát từ nhà sản xuất, phục vụ sản xuất.

Nhà khoa học, tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ là bộ phận phục vụ việc đổi mới sáng tạo của khu vực sản xuất, cần ưu tiên xây dựng động lực về đổi mới sáng tạo theo một số hướng như:

Đẩy nhanh, mạnh phát triển, sở hữu công nghệ lõi thuộc các lĩnh vực: Thông tin và truyền thông (ICT); năng lượng mới; vật liệu mới; y sinh; sản xuất thông minh, robotic; Thiết lập hệ thống các giải pháp công nghệ giải quyết các nút thắt trong hiện đại hóa công nghiệp. Thúc đẩy nghiên cứu cơ bản thuộc các lĩnh vực vật lý, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và truyền thông phục vụ trực tiếp cho phát triển công nghiệp.

Cần xây dựng và phát triển nền tảng chia sẻ thông tin đổi mới sáng tạo, khoa học và công nghệ phục vụ mọi đối tượng xã hội, đặc biệt là các nhà khoa học, học sinh, sinh viên và chủ doanh nghiệp cũng như thúc đẩy hình thành những doanh nghiệp đổi mới sáng tạo mang tính dẫn dắt; Yêu cầu các cơ sở giáo dục bậc cao, cơ sở giáo dục nghề nghiệp, viện nghiên cứu tham gia và trở thành nòng cốt của hệ thống đổi mới sáng tạo ngành Công Thương;

Ngoài ra, cũng cần hình thành những nhóm nghiên cứu liên ngành từ hệ thống trường, viện trực nhằm giải quyết các vấn đề, đi trước các vấn đề về công nghệ tại doanh nghiệp, đồng thời thực hiện chức năng là cầu nối giữa học thuật và công nghiệp.

phat trien cong nghiep

Động lực về chất lượng nguồn nhân lực

Để ngành Công nghiệp Việt Nam phát triển bền vững, cần hình thành và phát triển đội ngũ nhân lực kỹ thuật công nghệ phục vụ sản xuất có quy mô, cơ cấu, chất lượng hợp lý, phục vụ trực tiếp nhu cầu phát triển công nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế sâu, rộng và định hướng tự lực, tự cường, đổi mới sáng tạo của ngành công nghiệp.

Trong đó, chúng ta cần thiết lập lực lượng lao động cốt lõi có trình độ, kỹ năng, kỹ thuật có sức cạnh tranh quốc tế đáp ứng nhu cầu cấp thiết về lao động kỹ thuật công nghệ chất lượng cao phục vụ sản xuất của lĩnh vực công nghiệp, tiến tới hình thành sức cạnh tranh quốc tế của đội ngũ nhân lực kỹ thuật công nghệ Việt Nam.

Bên cạnh đó, chúng ta phải tập trug phát triển đội ngũ chuyên gia trực tiếp thực hiện nghiên cứu và phát triển sản phẩm tại nhà máy, cơ sở sản xuất cũng như đội ngũ chuyên gia nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ đổi mới sáng tạo.

Từ việc xác định 2 động lực tăng trưởng này, sản xuất công nghiệp cần tập trung hình thành nền tảng bền vững cho công nghiệp phát triển. Trong đó, tập trung giải quyết các điểm nghẽn về công nghiệp phụ trợ; Tự chủ về vật liệu, linh kiện và chi tiết thiết yếu; phụ thuộc vào kỹ thuật, công nghệ nước ngoài thông qua thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp để cùng phát triển, chia sẻ công nghệ, hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở nghiên cứu giải quyết các điểm nghẽn nêu trên. Cần Đẩy mạnh tiêu chuẩn hóa, đo lường, chứng nhận, kiểm định, giám sát năng lực của các lĩnh vực công nghiệp cơ bản.

Ngoài ra, cần phát triển bệ đỡ cho phát triển công nghiệp chế tạo như Hướng đổi mới sáng tạo vào việc chế tạo các sản phẩm có tính năng và chất lượng ưu việt trên cơ sở thiết lập năng lực mới về tích hợp thiết kế và tích hợp hệ thống; khởi động và đẩy nhanh thông minh hóa công nghiệp chế tạo nhằm tạo động lực phát triển thị trường công nghệ và thiết bị thông minh phục vụ chuyển đổi sang sản xuất công nghiệp thông minh; tạo dựng nền tảng phát triển công nghiệp như tiêu chuẩn hóa sản xuất chế tạo thông minh, chiến lược sản xuất linh kiện điện tử, phát triển các phần mềm lõi phục vụ sản xuất công nghiệp;

Xây dựng và tổ chức thực hiện hiệu quả chiến lược sản xuất tại Việt Nam kết hợp với công nghệ Việt; Tạo lập nền tảng công nghiệp chế tạo thông minh, xanh với các sản phẩm có vòng đời sử dụng xanh, thân thiện môi trường; Tạo lập các cực phát triển công nghiệp nhằm thúc đẩy việc nâng cấp, chuyển đổi công nghiệp chế tạo theo hướng thông minh, xanh, và giá trị gia tăng cao.

Về chuyển đổi và nâng cao sức cạnh tranh ngành công nghiệp nặng, chúng ta cần thay thế, chuyển đổi, nâng cấp công nghệ lạc hậu, kém hiệu quả thông qua chương trình hỗ trợ chuyển đổi công nghệ, thiết bị, quy trình sản xuất theo hướng xanh, hiện đại, tiết kiệm và hiệu quả về năng lượng và sử dụng nguyên vật liệu; Khuyến khích việc sắp xếp các doanh nghiệp theo vùng địa lý nhằm tối ưu hóa chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị, tiến tới triển khai mô hình kinh tế tuần hoàn theo chuỗi giá trị ngành.

Bên cạnh đó, cần tạo dựng thương hiệu hàng hóa, thương hiệu doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam, tiến tới thương hiệu hóa công nghiệp Việt Nam qua chất lượng sản phẩm công nghiệp Việt.

Hoàn thiện thể chế nhằm hướng công nghiệp phát triển theo hướng tối ưu hóa nguồn lực như tiêu chuẩn hóa về định mức sử dụng nguyên vật liệu, sử dụng năng lượng, quy trình sản xuất, bảo vệ môi trường, chất lượng và an toàn sản phẩm, trước hết đối với các ngành sản xuất công nghiệp tiêu tốn tài nguyên, năng lượng và gây bất lợi cho môi trường.

Châu Anh