Kinh nghiệm quốc tế về phát triển nền kinh tế số và hàm ý chính sách cho Việt Nam

PGS.TS. NGUYỄN VĂN THÀNH (Thứ trưởng Bộ Công an)

TÓM TẮT:

Phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số, dữ liệu để tạo ra mô hình kinh doanh mới. Trong nền kinh tế số, các doanh nghiệp sẽ đổi mới quy trình sản xuất, kinh doanh truyền thống sang mô hình hoạt động theo hệ sinh thái, liên kết từ khâu sản xuất, thương mại, sử dụng, để hướng đến mục tiêu tăng trưởng doanh nghiệp, nâng cao năng suất lao động. Ở nhiều quốc gia trên thế giới, việc tích hợp công nghệ số trong nền kinh tế đã góp phần đáp ứng nhanh chóng, thuận tiện, hiệu quả hơn nữa các nhu cầu của người dân. Do vậy, việc tham khảo kinh nghiệm phát triển kinh tế số ở các quốc gia phát triển có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam trong quá trình xây dựng chính sách phát triển nền kinh tế số trong bối cảnh hội nhập. Bài viết phân tích kinh nghiệm phát triển kinh tế số ở một số quốc gia trên thế giới và hàm ý chính sách phát triển nền kinh tế số cho Việt Nam.

Từ khóa: Kinh tế số, kinh nghiệm quốc tế, bài học, phát triển kinh tế, kinh doanh.

1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế số ở một số quốc gia trên thế giới

  • Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc hiện chiếm khoảng 1/5 dân số toàn cầu, và đã thực sự chuyển đổi trở thành một cường quốc về sản xuất và công nghệ, là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ. Có được những thành tựu đó không thể không kể đến những chính sách ưu tiên cho phát triển nền kinh tế số của nước này. Theo Báo cáo của Viện Nghiên cứu toàn cầu McKinsey (MGI, 2017), giao dịch thương mại điện tử của Trung Quốc hiện lớn hơn con số cộng gộp của năm nền kinh tế hàng đầu thế giới gồm Pháp, Đức, Nhật Bản, Anh và Mỹ.

Trung Quốc cũng là nơi quy tụ của rất nhiều hoạt động đầu tư mạo hiểm trong những lĩnh vực như thực tế ảo, ô tô tự lái, in 3D, robot, thiết bị bay không người lái và AI. Trong đó, 1/3 trong số 262 “unicorn” (Các công ty khởi nghiệp được định giá trên 1 tỷ USD) trên thế giới hiện nay là của Trung Quốc, chiếm 43% tổng giá trị của các “unicorn” trên toàn cầu.

Có được sự phát triển vượt bậc của Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ số là do Trung Quốc sở hữu thị trường khổng lồ và trẻ trung, giúp thương mại hóa nhanh chóng các mô hình kinh doanh số; đồng thời sở hữu hệ sinh thái số phong phú đang mở rộng. Đặc biệt, Chính phủ nước này cũng tạo điều kiện và không gian để các doanh nghiệp số thử nghiệm, đồng thời vừa là nhà đầu tư, vừa là người tiêu dùng các công nghệ số.

Báo cáo của MGI dự báo công nghệ số có thể thay đổi và tạo ra khoảng từ 10% đến 45% doanh thu công nghiệp của Trung Quốc vào năm 2030. MGI cũng cho rằng, Internet có tiềm năng đóng góp 1 điểm phần trăm bổ sung vào tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc từ năm 2013 đến năm 2025, dẫn đến gia tăng 22% GDP trong giai đoạn này, tương đương với 14.000 tỉ RMB.

Nền kinh tế số hóa của Trung Quốc đặc trưng bởi sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông số và thương mại điện tử với sự hiện diện của ba nhà cung ứng nội địa khổng lồ bao gồm Alibaba (thương mại điện tử), Tencent (game trực tuyến và mạng xã hội), và Baidu (công cụ tìm kiếm). Mỗi năm, Tập đoàn thương mại điện tử Alibaba xử lí số giao dịch mua bán nhiều hơn cả Ebay và Amazon cộng lại. Trong khi đó, với thế mạnh về game trực tuyến và mạng xã hội, Tencent hiện là công ty có giá trị lớn thứ 10 toàn cầu (khoảng 275 tỉ USD). Còn Baidu là công ty thống trị mảng công cụ tìm kiếm tại thị trường nội địa sau khi Google phải rút khỏi thị trường do bị kiểm duyệt.

Ba nền tảng công nghệ hàng đầu này của Trung Quốc đã phát triển đến trình độ có thể cạnh tranh với các ông lớn về công nghệ ở Mỹ là Amazon, Apple, Facebook, Google và Netflix.

Kể từ năm 2015, Trung Quốc đã vươn lên dẫn đầu thương mại điện tử trên toàn thế giới, với việc mua sắm trực tuyến chiếm 18% tổng doanh số bán lẻ, so với chỉ 8% ở Mỹ.

Trung Quốc hiện cũng đang phát triển kinh tế số hóa trong các ngành như ngân hàng và dịch vụ tài chính, dịch vụ hành chính công, dịch vụ y tế và các dịch vụ giáo dục. Trung Quốc cũng khuyến khích phát triển kinh tế số hóa và coi đây như một giải pháp giúp tái cân bằng cho nền kinh tế, tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào xây dựng cơ sở hạ tầng và thúc đẩy tiêu dùng nội địa.

Thanh toán di động hiện cũng là điểm nổi bật của cuộc cách mạng kỹ thuật số của Trung Quốc. Năm 2016, có đến 790 tỉ USD khoản thanh toán của bên thứ ba được thực hiện qua giao dịch di động, cao hơn Mỹ đến 11 lần và đang có cơ hội lớn vượt mặt nhiều cường quốc, trở thành nền kinh tế không dùng tiền mặt đầu tiên trên thế giới trong tương lai không xa.

Sự tăng trưởng vượt bậc về công nghệ di động, thanh toán và mức độ chấp nhận chúng trong các giao dịch tiền tệ đang giúp Trung Quốc nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các cường quốc kinh tế như Mỹ, Anh, Pháp. Nghiên cứu của tổ chức Forex Bonuses đầu năm 2017, tỷ lệ người dân nhận thức được các dịch vụ thanh toán di động tại Trung Quốc hiện lên tới 77%, vượt xa nhiều nền kinh tế khác trong danh sách như Úc, Đức, Nhật Bản và Nga.

Thành tựu này có được phần lớn nhờ sự bùng nổ của smartphone tại thị trường đông dân nhất thế giới. Đi kèm với đó là sự nhạy bén của nhiều nhà điều hành dịch vụ bán lẻ và tài chính khi nhanh chóng chấp nhận các hình thức thanh toán di động. Trung Quốc là thị trường Internet và smartphone lớn nhất thế giới. Từ việc mua sắm, ăn uống tới đi taxi hay chơi game, tất cả đều đi kèm tùy chọn thanh toán trực tuyến và di động. Nhờ đó, người dùng không cần phải quan tâm tới việc mang tiền mặt theo mỗi khi đi ra đường.

Trung Quốc hiện được coi là một trong những thị trường thanh toán di động tiên tiến nhất thế giới với sự phủ sóng rộng khắp của WeChat Pay và Alipay, giúp người dùng có thể thanh toán gần như mọi dịch vụ, nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống mà không cần tới tiền mặt.

  • Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Hàn Quốc được biết đến là quốc gia có nền kinh tế phát triển, một trong những thành viên dẫn đầu của nhóm 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới (G-20). Sau Chiến tranh Triều Tiên, kinh tế Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng, trở thành một trong những nước giàu nhất trên thế giới. Góp phần làm nên những thành tựu đó, nhân tố không thể phủ nhận đó là quốc gia này đã có những chính sách phát triển kinh tế ưu việt, trong đó phải kể đến chính sách ưu tiên phát triển nền kinh tế số. 

Để phát triển nền kinh tế số, trước hết, Hàn Quốc đã chủ động thực hiện chính sách phổ cập Internet cho người dân. Tỷ lệ số hộ gia đình Hàn Quốc kết nối mạng internet đạt 99,2%, đứng đầu trong số 175 quốc gia thuộc Liên minh viễn thông quốc tế (ITU). Theo tổ chức nghiên cứu Internet Akamai, Hàn Quốc hiện là quốc gia có tốc độ kết nối internet nhanh nhất thế giới, vượt trên cả Nhật Bản và Mỹ. Có được thành công trong việc phổ cập Internet tốc độ cao ở Hàn Quốc trước hết là nhờ Chính phủ nước này đã kịp thời và triển khai mạnh mẽ các sáng kiến về giáo dục và hạ tầng công nghệ thông tin nên đã tạo được một khởi đầu hoàn hảo và các chính sách này đang tiếp tục được thực hiện hiệu quả.

Cùng với đó, Chính phủ cũng duy trì được môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích đổi mới sáng tạo của khu vực tư nhân thông qua các chính sách điều tiết nhất quán. Các chính sách này đảm bảo việc giảm các trở ngại đối với các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) mới, thúc đẩy một môi trường cạnh tranh. Đặc biệt, Chính phủ nước này cũng khuyến khích xây dựng mối quan hệ hợp tác gắn kết giữa khu vực tư nhân được Chính phủ hậu thuẫn với khu vực công trong xây dựng hạ tầng mạng Internet. Ngoài ra, cũng phải nói thêm rằng, Hàn Quốc có mật độ dân số đô thị cao (tới 83% tập trung đông ở các chung cư đô thị). Do đó, việc xây dựng hạ tầng cáp quang băng thông rộng trở nên dễ dàng và tiết giảm chi phí đáng kể, đồng thời tối giảm được tổn hao hiệu suất đường truyền Internet.

Nhờ chính sách phổ cập Internet thành công đã giúp cho thương mại điện tử của Hàn Quốc cũng phát triển bùng nổ. Đặc biệt, Chính phủ Hàn Quốc đã quy định cho phép sử dụng chữ ký trực tuyến trong thương mại điện tử với đầy đủ tư cách pháp lý như chữ ký tươi trên văn bản giấy tờ. Ngay từ năm 1999, quy định này đã được ban hành và cho phép chữ ký điện tử được sử dụng làm bằng chứng trong các vấn đề pháp lý. Để tăng cường an ninh trong thương mại điện tử, Chính phủ cũng đã phát triển các quy định liên quan đến bảo vệ thông tin cá nhân và hướng dẫn khu vực tư nhân sử dụng công nghệ mã hóa. Đến năm 2000, khoảng 15 tổ chức liên quan đến thương mại điện tử đã đưa vào vận hành Diễn đàn Thương mại Điện tử Tích hợp nhằm thúc đẩy tiêu chuẩn hóa trong nước và quốc tế các nền tảng thương mại điện tử.

Ngân hàng điện tử (E-banking) cũng đã được giới thiệu tại Hàn Quốc từ năm 1999. Hầu hết các ngân hàng tăng thêm 0,1-0,5 điểm phần trăm lãi suất huy động cho khách hàng đăng ký Internet banking, và cho họ 0,5 điểm phần trăm chiết khấu trên lãi suất cho vay. Đến năm 2010, 42,3% người dùng Internet ở độ tuổi 12 trở lên đã sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử. Mức độ sử dụng bình quân cho ngân hàng Internet là 4,9 lần mỗi tháng. Hầu hết người dùng Internet banking thông qua máy tính (96,2%), trong khi 9,2% sử dụng điện thoại di động.

Năm 2015, thương mại điện tử đã chiếm trên 40% tất cả các giao dịch thương mại, trong đó, giao dịch B2B chiếm hơn 90% và giao dịch B2G chiếm gần 6%.

Bên cạnh chính sách phổ cập Internet và chính sách phát triển thương mại điện tử, Hàn Quốc cũng chú trọng xây dựng chính phủ điện tử (E-government) nhằm thúc đẩy quá trình chuyển đổi nền kinh tế số hóa. Những nỗ lực đầu tiên trong việc xây dựng chính phủ điện tử được tiến hành vào cuối những năm 1980 bằng việc thực hiện dự án Hệ thống thông tin cơ bản quốc gia (NBIS), trong đó tập trung vào việc triển khai các ứng dụng CNTT trên toàn quốc.

Các sáng kiến chính phủ điện tử của Hàn Quốc tập trung vào 3 mảng dịch vụ chính, bao gồm: (1) Chính phủ vì Công dân (G4C); (2) Chính phủ với Doanh nghiệp (G2B); và (3) Chính phủ với Chính phủ (Dịch vụ liên chính phủ - G2G). Hàng ngàn các dịch vụ công đã có sẵn trên mạng thông qua các biểu mẫu điện tử trên khắp các trang web chính phủ trung ương, khu vực và địa phương. Chính phủ Hàn Quốc hiện đang củng cố các chương trình đang triển khai để hướng dẫn công chúng nắm bắt và áp dụng mạng Internet và công nghệ thông tin vào cuộc sống hàng ngày với mục đích làm cho các dịch vụ công có sẵn qua hình thức điện tử mọi nơi mọi lúc. Thông qua chính sách về công nghệ và giáo dục, chính phủ Hàn Quốc đảm bảo rằng tất cả các trường tiểu học và trung học trên toàn quốc được kết nối với internet.

Nhờ những nỗ lực không ngừng nghỉ, Hàn Quốc luôn nằm trong nhóm các nước dẫn đầu về Chỉ số sẵn sàng về Chính phủ điện tử do Liên hợp quốc xây dựng. Chính phủ điện tử theo mô hình của Hàn Quốc đề cập đến một hệ thống điện tử được thiết kế để nâng cao hiệu quả của chính phủ và khả năng cạnh tranh thông qua một mạng lưới hệ thống hành chính công. Hệ thống chính phủ điện tử ưu việt của Hàn Quốc đóng vai trò như một mẫu hình cho nhiều quốc gia khác tham khảo và học tập. Ngay từ năm 2010, Hàn Quốc đã ký hợp đồng trị giá tới 73 triệu USD với Indonesia, Sri Lanka và một số nước đang phát triển khác nhằm xuất khẩu bí quyết và công nghệ để xây dựng hệ thống chính phủ điện tử.

Ngoài ra, giải trí điện tử cũng là nội dung quan trọng góp phần thúc đẩy chính sách phát triển nền kinh tế số của Hàn Quốc. Thị trường game online tại Hàn Quốc có hơn 15 triệu người đăng ký chơi. Một số lượng lớn các trò chơi được thiết kế trong thế giới tưởng tượng với nhiều người chơi trực tuyến. Sự phổ biến của các cổng chơi game như Netmarble, Hangame và Pmang mạng về doanh thu lớn và ước tính có khoảng 10 triệu người trưởng thành của Hàn Quốc chơi game qua các cổng này mỗi tháng. Phần lớn các trò chơi trực tuyến cho phép chơi miễn phí và lợi nhuận tạo ra thông qua việc bán các mặt hàng ảo. Các công ty game trực tuyến hàng đầu là NHN, Nexon, NCsoft, Neowiz và CJ Internet. Vào đầu năm 2010, Tòa án Tối cao Hàn Quốc đã phán quyết rằng các loại tiền ảo có thể được trao đổi cho tiền thật và các giao dịch sử dụng 'tiền ảo' sẽ bị đánh thuế.

  • Kinh nghiệm của Malaysia

Malaysia là quốc gia quân chủ lập hiến liên bang nằm tại phía Nam của khu vực Đông Nam Á. Quốc gia này bao gồm 13 bang và ba lãnh thổ liên bang với tổng diện tích đất là 330,803 km2. Nền kinh tế nước này là nền kinh tế thị trường định hướng nhà nước tương đối mở và công nghiệp hóa mới. Malaysia được đánh giá là sở hữu một trong những hồ sơ kinh tế tốt nhất tại châu Á, với vị trí nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN, lớn thứ 14 châu Á và lớn thứ 38 trên thế giới[1].

Malaysia có cơ sở hạ tầng kỹ thuật số tương đối tốt. Năm 2016, độ bao phủ sóng mạng di động của Malaysia là 95,4% tổng dân số, băng thông mạng Internet quốc tế là 27.2 Kbps trên mỗi người dùng và tốc độ kết nối mạng 4G đạt khoảng 20 Mbps[2]. Với nhiệm vụ phát triển 5G, Ủy ban Truyền thông Đa phương tiện Malaysia (MCMC - Malaysia Communications and Multimedia Commission) đã thành lập dự án 5G Task Force với mục tiêu nghiên cứu và đề xuất cho chính phủ một chiến lược triển khai 5G toàn diện, bao gồm những phương án về: (1) cơ sở hạ tầng, (2) phân bổ và quản lý phổ, (3) xây dựng hệ thống quy định pháp lý; (4) bảo vệ người tiêu dùng[3]. Cùng với đó, chính phủ Malaysia cũng cam kết sẽ cung cấp mạng lưới mạng kỹ thuật số tốc độ, chất lượng cao phủ sóng trên toàn đất nước và hàng chục triệu USD để tiếp tục các dự án thử nghiệm đối với công nghệ 5G[4].

Bên cạnh chính sách phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật số, Malaysia còn tập trung triển khai các chiến dịch định hướng, đào tạo, cung cấp cho người dân nhận thức về tiềm năng cơ hội, kiến thức cơ bản trong nền kinh tế số. Trong đó, nổi bật là chương trình đào tạo mang tên “eUsahawan”, được triển khai với mục đích truyền tải những giá trị và kiến thức về kinh doanh kỹ thuật số đến những người kinh doanh trẻ ở khu vực nông thôn nhằm giúp họ bổ sung, ứng dụng các kỹ năng về truyền thông, quảng cáo, tăng doanh số bán hàng và cải thiện thu nhập. Đồng thời, với nền tảng “eRezeki”, chính phủ Malaysia cũng tạo nhiều cơ hội việc làm cho tất cả người dân Malaysia, từ những người thợ sửa ống nước đến những người phụ nữ nội trợ. Thông qua đây, họ có thể đăng ký để trở thành những công nhân kỹ thuật số, làm những nhiệm vụ dựa trên các kỹ năng kỹ thuật số đơn giản và kiếm thêm thu nhập mà không cần phải ra khỏi nhà.

Với mục tiêu đưa nền kinh số quốc gia phát triển lên những tầm cao mới, từ năm 1996, Chính phủ Malaysia còn đưa ra chương trình “MSC Malaysia” (MSC), nhằm nuôi dưỡng sự phát triển của các công ty công nghệ địa phương, đồng thời thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ cả trong nước và nước ngoài. Đến nay, chương trình này đã đạt được những thành quả đáng kể góp phần thúc đẩy nền kinh tế số của Malaysia. Chương trình này cũng đã tập hợp, thu hút được 2.954 thành viên là các công ty tư nhân phát triển trong lĩnh vực khoa học và công nghệ như phân tích dữ liệu lớn (BDA -  Big Data Analytics), trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), chuỗi khối (Blockchain), robot, in 3D, công nghệ tài chính (Fintech),… tại Malaysia; đồng thời tạo ra khoảng 114 tỷ USD doanh thu và 182.538 việc làm[5].

Điều đặc biệt của chương trình này là hỗ trợ các thành viên, các doanh nghiệp tham gia được hưởng những ưu đãi về thuế, cụ thể: 70% - 100% thuế thu nhập của doanh nghiệp sẽ được cắt giảm trong vòng 5 - 10 năm nếu tuân thủ đầy đủ những điều kiện mà chương trình đưa ra[6]. Ngoài ra, MSC còn thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế số thông qua những tiện ích mà các dự án như: The Orbit, Cybercity, Trung tâm Kỹ thuật số, hay Trung tâm Nội dung sáng tạo và Hoạt hình của MSC Malaysia (MAC3 - The MSC Malaysia Animation and Creative Content Centre) nhằm hội tụ không chỉ các doanh nghiệp mà cả những sinh viên, học viên, và các chuyên gia trong lĩnh vực thành những khối gắn với mục tiêu khuyến khích sự chia sẻ nguồn lực, hợp tác và tiếp cận các phương pháp hiệu quả.

Bên cạnh đó, Malaysia còn xây dựng “Chương trình Doanh nhân Công nghệ Malaysia” (MTEP - Malaysia Tech Entrepreneur Programme) nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. MTEP có thể trao cơ hội cho những doanh nhân mong muốn xây dựng các dự án kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ bằng cách cấp thị thực 1 năm đối với người chưa có kinh nghiệm điều hành doanh nghiệp và 5 năm cho những người đã có kinh nghiệm.

2. Hàm ý chính sách phát triển nền kinh tế số cho Việt Nam

Năm 2018, qui mô thị trường kinh tế số khu vực Đông Nam Á đạt giá trị 72 tỉ USD, và Việt Nam xếp vị trí thứ 6 sau Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam chỉ chiếm 1/8 tổng giá trị tương ứng  khoảng 11%. Theo một nghiên cứu của Trung tâm Kinh doanh toàn cầu thuộc Đại học Tufts (Mỹ), Việt Nam đứng ở vị trí 48/60 quốc gia có tốc độ chuyển đổi kinh tế số nhanh trên thế giới, và đứng ở vị trí thứ 22 về tốc độ số hóa[7]. Sự dịch chuyển và thay đổi theo hướng số hóa ngày càng nhanh sẽ giúp Việt Nam bước vào nền kinh tế số ngày càng mạnh mẽ hơn, với nhiều doanh nghiệp kinh tế số ra đời từ các dự án khởi nghiệp trên nền tảng ứng dụng công nghệ tạo ra các mô hình kinh doanh mới.

Tuy nhiên, nếu Nghị quyết số 52-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2025 nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt 20% GDP, phát triển được một cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lớn mạnh thì hành trình chuyển dịch sang nền kinh tế số còn cả một quãng đường dài, trong khi Việt Nam còn nhiều hạn chế thách thức cả về nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng và cả nhận thức của cộng đồng xã hội. Do vậy, Việt Nam cần thiết phải tham khảo có chọn lọc các bài học kinh nghiệm quý từ quốc tế để rút ngắn khoảng cách và phát triển kinh tế số Việt Nam, bắt kịp với xu thế của khu vực và thế giới.

Theo đó, các bài học kinh nghiệm cần rút ra đó là:

Thứ nhất, tuyên truyền nâng cao nhận thức toàn xã hội về nền kinh tế số. Kinh nghiệm này được nhiều quốc gia quan tâm triển khai bằng nhằm tạo biện pháp tổng lực thúc đẩy quá trình phát triển nền kinh tế số. Theo đó, Chính phủ cần có chính sách tăng cường nhận thức của người dân và doanh nghiệp về kinh tế số, các lợi ích và thách thức đi kèm, với các nội dung cụ thể theo từng ngành, lĩnh vực, đặc biệt thông qua các cơ quan, doanh nghiệp và trường học. Đồng thời, các cơ quan báo chí, truyền thông cần định hướng dư luận, giúp cho các doanh nghiệp, người dân và toàn xã hội có nhận thức đúng về nền kinh tế số, qua đó có sự chuẩn bị tốt nhất cho thích ứng xu hướng phát triển này. Biện pháp này cũng đồng thời giúp tăng cường trách nhiệm của Chính phủ, doanh nghiệp và người dân trong xây dựng nền kinh tế số.

Việc nắm bắt thông tin đúng đắn, nhanh nhạy về bản chất, xu hướng phát triển nền kinh tế số giúp các doanh nghiệp tích cực nắm bắt các cơ hội cũng như bảo đảm tính cạnh tranh quốc tế trong nền kinh tế số toàn cầu và sẵn sàng đồng hành cùng Chính phủ hội nhập nền kinh tế số của thế giới. Đối với mỗi cá nhân, việc tự trang bị và nâng cao kỹ năng sử dụng công nghệ kỹ thuật số sẽ giúp phục vụ cho các công việc trong tương lai và tự biết bảo vệ trước các nguy cơ bị đe dọa hay lấy cắp thông tin cá nhân trực tuyến.

Thứ hai, Chính phủ cần tạo không gian thử nghiệm đi đôi với khuyến khích doanh nghiệp tận dụng tối đa sức mạnh của công nghệ số. Tại nhiều quốc gia trên thế giới đã chứng kiến nhiều doanh nghiệp công nghệ tiên phong đi đầu và tạo được thương hiệu cũng như tầm ảnh hưởng rộng lớn trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Có được những thành tựu đó, các thương hiệu này luôn có được sự hậu thuẫn mạnh mẽ từ phía Chính phủ với tư duy quản lí thông thoáng, tạo cơ chế ưu tiên cho sáng tạo, đặc biệt là hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các sáng kiến đang ngày càng dựa vào công nghệ số và có thể mang lại nhiều lợi ích về kinh tế - xã hội nếu được triển khai một cách hợp lí. Rõ ràng là tiềm năng đóng góp của các công nghệ số cho nền kinh tế là rất lớn, đặc biệt đối với Việt Nam với số lượng người dùng Internet và sử dụng điện thoại thông minh đông đảo và đam mê công nghệ. Ở khía cạnh này tăng cường nhận thức của người dân và doanh nghiệp về kinh tế số, các lợi ích và thách thức đi kèm, với các nội dung cụ thể theo từng ngành, lĩnh vực cũng rất cần được quan tâm, đặc biệt thông qua các cơ quan, xí nghiệp và trường học.

Ngược lại, nếu chính sách quản lý không cởi mở, thiếu linh hoạt sẽ làm cho cả doanh nghiệp trong nước và nền kinh tế của quốc gia bị yếu thế trong cuộc cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài và các nền kinh tế trên thế giới. Việt Nam hiện đang thiếu một kế hoạch quốc gia về chuyển đổi số nhằm tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế số, hình thành đồng bộ hạ tầng số quốc gia. Do đó, cần xây dựng và công bố quy hoạch ngành về ứng dụng công nghệ thông tin để làm cơ sở ban hành các chuẩn trao đổi thông tin giữa các cơ quan, đơn vị, qua đó tạo sự liên kết, đồng bộ trong quá trình đầu tư và phát triển hạ tầng dựa vào ứng dụng công nghệ thông tin.

Cùng với đó, Chính phủ cần xây dựng nền tảng, thể chế cho các mô hình kinh doanh kinh tế số, trong đó sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật cho các ngành đang có nhiều mô hình kinh doanh mới như thương mại điện tử, tài chính số, ngân hàng số... Cải cách thể chế để thu hút đầu tư cho các công nghệ số trong các lĩnh vực đầu tư mạo hiểm, đầu tư thiên thần theo hướng tạo thuận lợi tối đa cho các hoạt động góp vốn, mua cổ phần, mua bán sáp nhập doanh nghiệp công nghệ số,…

Thứ ba, đầu tư nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số cũng như các giải pháp công nghệ số hiện đại để triển khai các ứng dụng số kết nối thông minh, đẩy nhanh các ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt, hiệu quả hóa chính phủ điện tử,… Công việc này đòi hỏi ở cả phía Chính phủ cũng như các doanh nghiệp tư nhân. Đây là nền tảng quan trọng cần triển khai để tạo điều kiện cho các hoạt động trực tuyến. Trên cơ sở nền tảng viễn thông mạnh, Việt Nam cần tập trung xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia và các cơ sở dữ liệu khác, song song với phát triển các công nghệ yếu tố đảm bảo an toàn an ninh thông tin trên không gian mạng.

Về nâng cấp hạ tầng số, Chính phủ và các doanh nghiệp cần khẩn trương thực hiện các phương án triển khai dịch vụ 5G để theo kịp xu hướng thế giới. Công nghệ 5G sẽ tạo cơ sở hạ tầng tốt cho việc kết nối theo xu hướng Internet kết nối vạn vật, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh chú trọng nâng cấp hạ tầng kỹ thuật số, nguồn nhân lực công nghệ thông tin cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Chương trình đào tạo nhân lực CNTT cần hướng đến đẩy nhanh xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin, đặc biệt là cập nhật giáo trình đào tạo CNTT gắn với các xu thế công nghệ mới như Internet kết nối vạn vật (Internet of Things - IoT), AI, công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên tiếp cận lĩnh vực này càng sớm càng tốt, đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa các trường và khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng CNTT.

Thứ tư, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực để hình thành đội ngũ chuyên ngành thương mại điện tử, an ninh mạng, công nghệ thông tin, truyền thông... nhằm chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi sản xuất và việc làm trên môi trường Internet. Đây cũng là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của nền kinh tế số. Theo Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam, trong lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông, Việt Nam hiện có gần 900.000 lao động, trong đó có một số lượng lớn kỹ sư về AI (trí tuệ nhân tạo), IoT (Internet kế nối vạn vật) khoa học dữ liệu, số người được cấp chứng chỉ lớn. Tuy nhiên, theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) những năm gần đây, dù có những cải thiện nhưng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn xếp hạng thấp đến trung bình khá về chất lượng, nhất là lao động chuyên môn cao và năng lực sáng tạo trong nền kinh tế số khi so sánh với thế giới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề chỉ đạt 60%, vẫn còn có khoảng cách xa so với yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số[8]. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ thông tin về cả số lượng và chất lượng được xem là một trong những mối thách thức lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế số của Việt Nam.

Trong khi đó, nhiều nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, gần 1/3 số nghề mới hiện nay không tồn tại cách đây 1/4 thế kỷ, và sau 1/4 thế kỷ nữa sẽ có 60% số nghề chưa xuất hiện bây giờ. Vì vậy, cùng với việc thay đổi chương trình đào tạo theo kịp các xu thế công nghệ mới, đẩy nhanh việc xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin bằng việc tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên sớm tiếp cận lĩnh vực này thì cũng rất cần thay đổi giáo dục theo hướng tăng tính tự học, tự cập nhật và học suốt đời[9]. Do vậy, Việt Nam cần đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực để chuẩn bị và kịp thời thích ứng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế số. Theo đó, chương trình đào tạo nhân lực CNTT cần hướng đến đẩy nhanh xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin, đặc biệt là cập nhật giáo trình đào tạo CNTT gắn với các xu thế công nghệ mới như Internet kết nối vạn vật (IoT), AI, công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên tiếp cận lĩnh vực này càng sớm càng tốt, đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa các trường và khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng CNTT.

 

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

[1] Malaysia <https://vi.wikipedia.org/wiki/Malaysia#Kinh_t%E1%BA%BF>

[2] The World Economic Forum (2016), The Global Information Technology Report 2016, Tr. 134.

[3,5] Nguyễn Huy Hoàng (2020), Kinh nghiệm một số nước ASEAN về phát triển kinh tế số và tham khảo cho Việt Nam, <http://hdll.vn/vi/thong-tin-ly-luan/kinh-nghiem-mot-so-nuoc-asean-ve-phat-trien-kinh-te-so-va-tham-khao-cho-viet-nam.html#_ftn12>

[4] Alita Sharon (2020), Malaysia Government Committed to Embrace Digital Tech, <https://www.opengovasia.com/malaysian-government-committed-to-embrace-digital-tech/. 16/2/2020>

[6] MSC Malaysia (1/1/2019), Guidelines on MSC Malaysia Financial Incentives (Services Incentive - Income Tax Exemption). Malaysia Digital Economy Coorporation.

[7] Thế Lâm (2020), Việt Nam đang ở đâu trong xu thế kinh tế số?, <https://laodong.vn/lao-dong-cuoi-tuan/viet-nam-dang-o-dau-trong-xu-the-kinh-te-so-776086.ldo>, ngày 05/01/2020.

[8] Nguyễn Đức (2019). Lo ngại nhân lực doanh nghiệp Việt ‘đuối’ trong nền kinh tế số, <https://thegioitiepthi.vn/lo-ngai-nhan-luc-doanh-nghiep-viet-duoi-trong-nen-kinh-te-so-166323.html>

[9] Phạm Việt Dũng (2020). Kinh tế số - Cơ hội "bứt phá"cho Việt Nam, <http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/kinh-te-so---co-hoi-but-phacho-viet-nam.html>

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Trần Thị Hằng, Nguyễn Thị Minh Hiền (2019), Quản lý nhà nước trong nền kinh tế số, <http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/quan-ly-nha-nuoc-trong-nen-kinh-te-so-314825.html>, ngày 05/11/2019.
  2. Võ Văn Lợi (2019), Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0, <http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu-trao-doi/phat-trien-nguon-nhan-luc-viet-nam-dap-ung-yeu-cau-cua-cach-mang-cong-nghiep-40-302127.html>, ngày 09/02/2019.
  3. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2018), Phát triển nền kinh tế số nhìn từ kinh nghiệm một số nước châu Á và hàm ý đối với Việt Nam, Cổng thông tin kinh tế Việt Nam - VNEP (https://Vnep.org.vn), Hà Nội.
  4. Bùi Thanh Tuấn (2020), Một số khó khăn, thách thức trong phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam, < http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/thuc-tien/item/3100-mot-so-kho-khan-thach-thuc-trong-phat-trien-nen-kinh-te-so-o-viet-nam.html>, ngày 18/4/2020.
  5. Hải Linh (2019), Nhiều thách thức trong quản lý hoạt động thương mại điện tử, < http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2019-09-19/nhieu-thach-thuc-trong-quan-ly-hoat-dong-thuong-mai-dien-tu-76565.aspx>, ngày 19/9/2019.

 

INTERNATIONAL EXPERIENCES IN DEVELOPING THE DIGITAL ECONOMY AND SOME POLITICAL RECOMMENDATIONS FOR VIETNAM 

Assoc. Prof. Ph.D NGUYEN VAN THANH
Deputy Minister Ministry of Public Security

ABSTRACT:

Digital economic development is the use of digital technology and data to create new business models. In the digital economy, businesses innovate and develop their traditional production and business processes in an ecosystem-based operating models that link production, distribution and consumption in order to promote the business growth and increase the productivity. In many countries, the integration of digital technology in the economy has created quick and more effective responses to the needs of the people. Experience of developed countries in developing digital economies would help Vietnam establish appropriate policies on developing the digital economy in the context of the country’s integration process. This paper analyzes experiences of some countries in developing digital economics and presents some political recommendations on developing the digital economy in Vietnam.

Keywords: Digital economy, international experience, economic development. 

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, 

Số 16, tháng 7 năm 2020]