Một số giải pháp huy động vốn đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Quảng Nam

Quảng Nam có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trên trục giao thông xuyên Quốc gia về đường sắt, đường bộ, đường biển và đường hàng không. Ngoài ra Quảng Nam còn có Cảng biển Kỳ Hà và gần Cảng biển Tiên s

Lợi thế về địa lý kinh tế đó, nếu được chú ý đầu tư và khai thác đúng, sẽ tạo ra một sự đột phá, tác động mạnh các ngành dịch vụ, chế xuất và trung chuyển hàng hoá đến các vùng sâu trong nước và các nước láng giềng khi mở cửa và hội nhập.
Quảng Nam được đánh giá là một tỉnh có nhiều tiềm năng về biển và ven biển để phát triển nuôi trồng, chế biến các loại thuỷ hải sản có giá trị, với 125 km bờ biển, có nhiều bãi biển đẹp như: Hạ My, Hội An, Tam Thanh, Biển Rạng, và có danh lam, thắng cảnh về lịch sử, đặc biệt là hai di sản văn hóa thế giới: Đô thị cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn và những công trình kiến trúc văn hoá của người Chàm... tạo thế cho Quảng Nam trở thành một điểm du lịch nổi tiếng của khu vực và thế giới.
Quảng Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản rất đa dạng, đặc biệt là các loại khoáng sản như vàng, than đá, đá vôi, đá xây dựng, cát trắng... có trữ lượng rất lớn phục vụ tốt cho công nghiệp khai khoáng.
Tuy nhiên, Quảng Nam vẫn còn những khó khăn, hạn chế. Kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, bị tàn phá nặng nề do chiến tranh và thiên tai, nhưng chậm được đầu tư nâng cấp. Hệ thống giao thông, điện nước thiếu đồng bộ và xuống cấp, đặc biệt là ở miền núi và nông thôn.
Tài nguyên đất rừng còn tương đối nhiều và đa dạng, song hiệu quả sử dụng thấp. Mức độ ô nhiễm các nguồn nước, không khí, môi trường sinh thái đã diễn ra ngày càng bất lợi cho khả năng phát triển bền vững nếu không có những giải pháp khai thác hợp lý.
Lao động nhàn rỗi nhiều, nhưng phần lớn chưa qua đào tạo nghề, gây sức ép đối với sự phát triển kinh tế. Chỉ số GDP bình quân đầu người thấp hơn nhiều so với mức bình quân chung cả nước (220USD/400USD) làm cho việc huy động vốn từ nội lực và tăng dung lượng thị trường địa phương hết sức khó khăn.
Thực trạng thu hút vốn đầu tư của Quảng Nam trong thời gian qua:
Ngay sau khi được tái lập (01/01/1997), tỉnh Quảng Nam đã ban hành một số cơ chế chính sách tài chính nhằm thu hút đầu tư vào Quảng Nam, tinh thần của cơ chế này là tạo mọi điều kiện để huy động vốn đầu tư, trong đó ưu tiên cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, kêu gọi các nhà đầu tư ứng vốn trước để đầu tư và tìm nguồn trả nợ hoặc chấp nhận thanh toán chậm không tính lãi, khuyến khích đầu tư vào các Khu công nghiệp, Khu Kinh tế mở Chu Lai và một số ngành có tính chất mũi nhọn như dệt may, da giày, du lịch, sản xuất chế biến nông, lâm hải sản, vật liệu xây dựng...
Các chính sách của tỉnh đang được triển khai có hiệu quả, tạo được sức thu hút cao đối với các nhà đầu tư trong những năm vừa qua, tác động tích cực đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh thời kỳ 1997-2002, đó là tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7,63/năm, nền kinh tế chuyển dịnh theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong cơ cấu GDP. Ngành nông-lâm-thuỷ sản chiếm 47,62% năm 1997 đến năm 2002 còn 38,28%; ngành Công nghiệp chiếm 19,95% năm 1997 và 28,31% năm 2002; ngành Dịch vụ từ 32,43% năm 1997 lên 33,41% năm 2002.
Tuy nhiên, trong thực tiễn khi thực hiện các chính sách thu hút vốn đầu tư của tỉnh còn có những khó khăn được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Nền kinh tế đang ở điểm xuất phát thấp, kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh, một số lĩnh vực phát triển chậm, thiếu vững chắc, ngành công nghiệp của tỉnh tuy có tăng trưởng, nhưng chưa đủ mạnh, chưa hình thành được sản phẩm chủ lực mang tính đặc thù của địa phương và có sức cạnh tranh cao. Trình độ công nghệ kỹ thuật của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước chậm được đổi mới, quy mô nhỏ bé, sức cạnh tranh của sản phẩm thấp, thị trường chưa được mở rộng.
- Các chính sách thu hút đầu tư như: ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, tiền thuê đất cho các nhà đầu tư, có mới hơn so với quy định hiện hành của Chính phủ, nhưng cũng chưa thực sự thông thoáng so với các địa phương khác, vì khả năng chịu đựng của Ngân sách có hạn.
- Chưa có sự chuẩn bị đúng mức trong việc đào tạo lao động để cung cấp cho nhà đầu tư theo yêu cầu. Chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo lao động cho nhà đầu tư còn hạn chế, nhất là đối với các ngành công nghiệp có kỹ thuật cao, các ngành hàng xuất khẩu.
Về thực hiện cơ chế hành chính “một cửa, một dấu” , cũng còn nhiều lúng túng trong việc phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước về cấp giấy phép đầu tư, thoả thuận địa điểm, để thực hiện nhanh theo cam kết với các nhà đầu tư.
 Tổng vốn đầu tư trên địa bàn tăng, nhưng chưa đáp ứng so với yêu cầu phát triển. Đầu tư nước ngoài còn thấp. Cơ sở vật chất kỹ thuật kinh tế và cơ sở hạ tầng được tăng cường, song chưa đáp ứng so với nhu cầu, thiếu đồng bộ. Những hạn chế đó đã ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của tỉnh trong thời gian qua.
Mục tiêu phát triển kinh tế của Quảng Nam đến năm 2010 là:
- Mức tăng trưởng GDP từ 8,7-10%/năm thời kỳ 2001-2002 và 9,2-11%/năm thời kỳ 2006-2010.
- GDP bình quân đầu người đến năm 2005 đạt 340-370 USD và đến 2010 đạt 578-680 USD.
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 19-20%/năm thời kỳ 2001-2005 và 21-22%/năm thời kỳ 2006-2010.
- Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ thương mại tăng bình quân 13-14%/năm thời kỳ 2001-2005 và 3,0-3,5%/năm thời kỳ 2006-2010.
- Giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp tăng bình quân 3,4-4,0%/năm thời kỳ 2001-2005 và 3,0-3,5%/năm thời kỳ 2006-2010.
Chủ động và tích cực tạo tiền đề để phát triển thành một tỉnh công nghiệp với tỷ trọng công nghiệp 38-39%; dịch vụ 36-38% và nông lâm ngư ngiệp 23-26% trong GDP của tỉnh vào năm 2010. Trước hết đến năm 2005, cơ cấu kinh tế của tỉnh 30-35-35% cho nông nghiệp, công nghiệp-dịch vụ.
Để thực hiện được mục tiêu này, nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005 khoảng 7.000-7.200 tỷ đồng và khoảng 14,5 đến 15 nghìn tỷ đồng trong giai đoạn 2006-2010. Theo các số liệu điều tra thì trong giai đoạn 1997-2000, tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội của Quảng Nam khoảng 2.143 tỷ đồng, chiếm khoảng 35% tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn. Dự tính nguồn vốn đầu tư phát triển trong những năm đến cũng chỉ ở mức tăng như giai đoạn vừa qua thì khả năng thu hút các nguồn vốn cho đầu tư phát triển của Quảng Nam trong các giai đoạn đến 2010 cũng có thể đáp ứng được. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, cả nước đang gấp rút gia nhập vào quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá, để đảm bảo đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng, thực hiện tốt các mục tiêu đề ra, Quảng Nam cần có các giải pháp tốt hơn nhằm huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển.
Một số giải pháp huy động nguồn lực tài chính đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Quảng Nam.
1. Đổi mới chính sách huy động nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước:
- Huy động hợp lý nguồn thu thuế, phí và lệ phí. Tăng cường quản lý chặt chẽ và tập trung vào các nguồn thu từ thuế VAT, thu nhập doanh nghiệp, thu từ đất đai, nhà ở, tài nguyên. Đặc biệt là cần thể chế hoá các khoản thu phí và lệ phí được cụ thể rõ ràng. Đổi mới công tác quản lý thu thuế theo phương thức nâng cao trách nhiệm của các cá nhân doanh nghiệp trong việc tự giác chấp hành chính sách thuế và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, thông qua cơ chế tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế. Tăng cường chủ động và nâng cao vai trò trách nhiệm trong công tác quản lý thu ở các cấp chính quyền địa phương theo nguyên tắc tập trung các nguồn thu lớn về ngân sách tỉnh, đồng thời đổi mới phân cấp nguồn thu phù hợp với thực tiễn quản lý thu của cơ sở.
- Cần thực hiện tốt pháp lệnh thực hành tiết kiệm. Kiên quyết cắt giảm các khoản chi chưa thật cấp bách, kém hiệu quả đồng thời đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hoá các khoản chi thường xuyên như chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, phát triển khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường. Giảm chi thường xuyên sẽ làm tăng nguồn tiết kiệm ngân sách để tăng vốn đầu tư phát triển.
- Ngân sách Nhà nước tập trung đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng, khắc phục tình trạng lạc hậu yếu kém về cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội. Các khoản thu từ cơ sở hạ tầng hay có liên quan đến cơ sở hạ tầng như thu từ khai thác quỹ đất, công sản, phí sử dụng hạ tầng, tài nguyên ... nên được đầu tư trở lại cho phát triển cơ sở hạ tầng.
2. Tăng cường huy động đầu tư từ hệ thống tín dụng thương mại:
Nâng cao hiệu quả huy động vốn từ hệ thống tín dụng thương mại sẽ làm tăng tỷ lệ vốn hoá trong nền kinh tế, hướng các nguồn tích luỹ xã hội vào các hoạt động sản xuất kinh doanh có lợi cho quốc kế dân sinh. Để làm tốt vấn đề này, phải tăng quy mô hoạt động của các ngân hàng bằng cách mở rộng mạng lưới kinh doanh, đặc biệt là các quầy nhận tiết kiện để vừa tạo ra sự tiện dụng, vừa gần gũi với người dân. Tiếp tục duy trì và hoàn thiện hơn nữa các hình thức thu hút tiền gửi tiết kiệm đồng thời cần nghiên cứu triển khai các hình thức huy động tiết kiệm mới. Mở rộng các hình thức huy động vốn tiết kiện như tiết kiệm xây dựng nhà ở, tiết kiệm tuổi già, tiết kiệm qua bưu điện ... tạo thuận lợi cho người dân có thể gửi tiết kiệm bất cứ lúc nào, ở đâu, với số tiền nhiều hay ít. Mặt khác, cần đa dạng hoá danh mục đầu tư của ngân hàng thông qua việc tăng cường đầu tư vốn vào các doanh nghiệp theo mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực kinh tế.
3. Huy động vốn đầu tư từ các loại hình doanh nghiệp:
Trong thời kỳ 2001-2010, nguồn vốn từ doanh nghiệp là nguồn đầu tư quan trọng đối với định hướng phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Do vậy, tỉnh cần có cơ chế khuyến khích, dành ưu thế cạnh tranh so với các vùng khác.
- Thực hiện các chính sách ưu đãi đặc biệt về thuế, về vốn tín dụng, về quyền sử dụng đất, về cơ sở hạ tầng, về đào tạo nghề cho doanh nghiệp. Có những giải pháp thiết thực đảm bảo lợi nhuận để lại, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần tích tụ vốn, tập trung vốn và tự bỏ vốn đầu tư phát triển. Có quy chế cụ thể, thích hợp trong việc động viên các doanh nghiệp tái đầu tư, đổi mới công nghệ, thiết bị hiện đại.
- Có cơ chế linh hoạt để doanh nghiệp tự huy động vốn từ nguồn trong và ngoài nước qua các hình thức liên doanh, liên kết, hợp tác sản xuất kinh doanh với các đối tác. Đồng thời ban hành cơ chế bảo vệ quyền lợi, tài sản cho doanh nghiệp ( như an ninh-trật tự, các rủi ro về thiên tai, hoả hoạn ... ).
- Đẩy nhanh tiến trình đổi mới, sắp xếp, phát triển doanh nghiệp nhà nước, nhằm khơi thông dòng vốn đầu tư của các thành phần kinh tế và dân cư vào doanh nghiệp và đổi mới công tác điều hành quản lý doanh nghiệp một cách hiệu quả hơn.
- Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, cần xác định rõ trách nhiệm tìm kiếm thị trường không chỉ là của doanh nghiệp, mà cũng là trách nhiệm của chính quyền. Vì vậy, chính quyền cấp tỉnh cần mở rộng quan hệ ngoại giao, xúc tiến việc đàm phán thương mại mở đường cho các doanh nghiệp xâm nhập vào thị trường thế giới.
4. Đẩy mạnh tiếp thị và có chính sách khuyến khích thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Cơ sở hạ tầng là một trong những điều kiện đảm bảo cho hoạt động đầu tư phát triển, do đó cần tập trung hoàn chỉnh xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào các khu công nghiệp, khu kinh tế mở theo quy hoạch.
Thực hiện biện pháp đổi đất lấy hạ tầng để khuyến khích các nhà đầu tư vào kết cấu hạ tầng kỹ thuật bằng các hình thức BOT, BT, BTO cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Việc đầu tư cho các công trình, nhất là đầu tư cho các khu công nghiệp, khu kinh tế mở, cần được thực hiện có trọng tâm, trọng điểm. Song song với việc đầu tư hạ tầng kỹ thuật  phải quan tâm đầu tư vào hạ tầng xã hội, khu giải trí, công viên, vệ sinh môi trường ... ở xung quanh các khu công nghiệp và các địa bàn quy hoạch để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, cần phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ kỹ thuật, công nhân có trình độ cao và cán bộ quản lý để cung cấp cho dự án đầu tư nước ngoài.
Xây dựng danh sách các dự án khuyến khích đầu tư nhằm đầu tư vào lĩnh vực và dự án thuộc diện đặc biệt khuyến khích hoặc khuyến khích đầu tư, đồng thời đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư.
Thực hiện khuyến khích đầu tư bằng các cơ chế chính sách tài chính ưu đãi về thuế, tín dụng, đất đai, cơ sở hạ tầng ..., các loại giá dịch vụ trong các Khu công nghiệp, Kinh tế mở như điện, nước, viễn thông, các loại phí và lệ phí.
Cải tiến thủ tục đầu tư theo hướng một cửa, nhanh gọn, tạo môi trường thuận lợi để nhà đầu tư yên tâm, tin tưởng vào thiện chí và tinh thần hợp tác tích cực của tỉnh.
5. Tổ chức huy động nguồn vốn ODA và các nguồn vốn nước ngoài khác:
Nguồn tài chính từ việc đầu tư qua các hình thức viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo, viện trợ phát triển chính thức, cho vay ưu đãi theo các dự án cũng là một kênh quan trọng để đầu tư phát triển. Tuy nhiên, do tính chất của nguồn vốn này, sau một thời gian phải hoàn trả nợ và lãi vay nên cần có sự tính toán cân nhắc khi sử dụng nguồn lực này. Do vậy, Tỉnh cần xây dựng danh mục các dự án thu hút ODA để chủ động tìm kiếm loại viện trợ từ các nước cho phù hợp, nhằm tránh sự thụ động theo mục tiêu viện trợ mà không phù hợp với chương trình đầu tư và mục tiêu quốc gia.
Danh mục dự án đầu tư thu hút ODA phải được sắp xếp theo trình tự, ưu tiên cho các ngành khác nhau, phù hợp với vốn đối ứng trong nước, nhằm tăng thêm tính khả thi trong triển khai thực hiện dự án.

  • Tags: