Một số giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vốn tự có trong hoạt động của ngân hàng thương mại

NCS. MAI HOÀNG ĐỨC DUY (Khoa Luật kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - Luật - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT:

Bài viết này tập trung phân tích những hạn chế, bất cập một số quy định của Thông tư số 22/2019/TT - NHNN ngày 15 tháng 11 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài của Ngân hàng Nhà nước. Trên cơ sở đó, tác giả hình thành những kiến nghị, đề xuất, nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về vốn tự có trong hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM) cho phù hợp với thông lệ quốc tế và tiến trình hội nhập của thị trường tiền tệ - ngân hàng Việt Nam đối với khu vực và quốc tế.

Từ khóa: vốn, vốn chủ sở hữu, tỷ lệ an toàn vốn, tài sản có rủi ro, ngân hàng thương mại.

1. Đặt vấn đề

Trong lĩnh vực ngân hàng, vốn tự có là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định năng lực tài chính của NHTM, đặc biệt còn giúp các ngân hàng đương đầu với các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trên phạm vi toàn cầu. Ngoài ra, vốn tự có đóng góp cho khối nguồn vốn nói chung để hình thành tổng tài sản của NHTM. Vì vậy, vốn tự có càng lớn, NHTM càng mạnh và càng vững chắc.

Trên bình diện quốc tế, để đánh giá sức mạnh tài chính của NHTM, giới nghiên cứu, cũng như lãnh đạo ngân hàng đã và đang tiếp tục xác định vốn tự có theo Basel III1. Trong thực tiễn, Basel III về xác định vốn tự có là chuẩn mực phổ quát, tiên tiến bậc nhất trên thế giới hiện nay. Chuẩn mực này không chỉ áp dụng tại các nước thành viên chính thức2 của Basel III mà còn được cập nhật trên phạm vi toàn cầu.

Theo quy định hiện hành, có nhiều khái niệm liên quan nhất định đến vốn tự có. Theo Luật Doanh nghiệp năm 2020, “vốn điều lệ”3 là tổng giá trị tài sản do các thành viên công ty, chủ sở hữu công ty đã góp hoặc cam kết góp khi thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh; là tổng mệnh giá cổ phần đã bán hoặc được đăng ký mua khi thành lập công ty cổ phần. Ngoài ra, Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2010 quy định “vốn pháp định”4 là vốn tối thiểu 3.000 tỷ đồng (Ba ngàn tỷ đồng) mà NHTM buộc phải duy trì trong suốt thời gian hoạt động. Bên cạnh đó, “vốn tự có”5 ghi nhận tại Thông tư số 22/2019/TT - NHNN bao gồm vốn chủ sở hữu và tài sản nợ phải trả dài hạn. Như vậy, trong lĩnh vực ngân hàng, “vốn tự có” là vốn được hình thành từ nhiều nguồn vốn khác nhau mà NHTM có quyền sử dụng để thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.

Tại Việt Nam, để bảo đảm năng lực cạnh tranh của NHTM trong xu thế hội nhập sâu rộng của thị trường tài chính - tiền tệ Việt Nam đối với khu vực và quốc tế thì quy định về vốn tự có của NHTM trở thành đề tài mang tính thời sự quốc gia. Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích đánh giá thực trạng pháp luật về vốn tự có trong lĩnh vực ngân hàng, từ đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vốn tự có trong hoạt động của NHTM hiện nay.

2. Thực trạng pháp luật về vốn tự có trong hoạt động của ngân hàng thương mại

Luật Các tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010 (Luật Các TCTD năm 2010), Thông tư số 22/2019/TT - NHNN ngày 15 tháng 11 năm 2019 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các văn bản pháp luật có liên quan đã hình thành hành lang pháp lý cho NHTM hoạt động an toàn và hiệu quả trong thời gian qua, đặc biệt đóng góp to lớn cho công tác kiểm soát vốn tự có của NHTM hiệu quả. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, các quy định này bước đầu bộc lộ một số hạn chế, bất cập nhất định như sau:

Thứ nhất, quy định vốn tự có bảo đảm bù đắp tổn thất do rủi ro tín dụng cần bổ sung đầy đủ và toàn diện hơn.

Trong nền kinh tế hiện đại, NHTM đã và đang tiếp tục là trung gian tài chính, thu hút tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ tài chính - tiền tệ và tham gia các hoạt động đầu tư tài chính khác. Dĩ nhiên, nguồn vốn là một trong những tiêu chí quan trọng quyết định quy mô lớn nhỏ của NHTM. Nguồn vốn này lớn dần theo thời gian, hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 86/2019/NĐ-CP ngày 14 tháng 11 năm 2019 của Chính phủ quy định mức vốn pháp định của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thì mức vốn pháp định của NHTM là 3.000 tỷ đồng (Ba ngàn tỷ đồng). Đây là vốn ban đầu, không được giảm và phải duy trì trong suốt quá trình hoạt động.

Cùng với vốn pháp định như trên, nguồn vốn của NHTM không ngừng được bổ sung thông qua hoạt động kinh doanh. Tại Điều 8 Thông tư số 22/2019/TT - NHNN, nguồn vốn tự có của NHTM được phân chia thành 2 cấp. Cấp 1 gồm: (i) vốn điều lệ, (ii) quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, (iii) quỹ đầu tư phát triển, (iv) quỹ dự phòng tài chính, (v) vốn đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định, (vi) lợi nhuận chưa phân phối, (vii) thặng dư vốn cổ phần, (viii) chênh lệch tỷ giá hối đoái. Cấp 2 gồm: (i) 50% phần chênh lệch tăng do đánh giá lại tài sản cố định, (ii) 40% phần chênh lệch tăng do đánh giá lại các khoản góp vốn đầu tư dài hạn, (iii) dự phòng chung, (iv) trái phiếu chuyển đổi, nợ thứ cấp do ngân hàng phát hành. Việc phân cấp vốn tự có theo Phục lục 1 Thông tư số 22/2019/TT-NHNN có ý nghĩa lớn nhằm xác định số lượng nguồn vốn tương ứng với các rủi ro phát sinh như: rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi thị trường. Trên cơ sở đó, dự liệu khả năng bù đắp những tổn thất phát sinh trong trong tương lai.

Ngoài ra, tại 2 Điều 9 Thông tư số 22/2019/TT - NHNN quy định ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thường xuyên duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% và áp dụng công thức như sau:

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (%) =

Vốn tự có

x 100%

Tổng tài sản Có rủi ro

Trong đó,

Vốn tự có: vốn cấp 1 & 2 được liệt kê tại Điều 8 Thông tư số 22/2019/TT-NHNN như trên.

Tài sản Có rủi ro: có 06 nhóm tài sản và cam kết ngoại bảng, tương ứng hệ số rủi ro là nhóm 1: 0%, nhóm 2: 20%, nhóm 3: 50%, nhóm 4: 100%, nhóm 5: 150%, nhóm 6: 200% theo Phụ lục 02 Thông tư số 22/2019/TT - NHNN. Ví dụ, ngân hàng có tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước: 100.000.000VNĐ, cùng lúc ngân hàng mua 150.000.000VNĐ trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường vốn. Lượng vốn mà ngân hàng cần có để bù đắp rủi ro, tiền gửi: 100.000.000VNĐ x 0% (0% trọng số áp dụng cho tài sản có rủi ro nhóm 1) x 9% = 0VNĐ và trái phiếu: 150.000.000VNĐ x 100% (100% trọng số áp dụng cho tài sản có rủi ro nhóm 4) x 9% = 13.500.000VNĐ.

Qua ví dụ nêu trên, để bảo đảm trái phiếu giữ nguyên giá trị 150.000.000VNĐ (tài sản có rủi ro) trước biến động tỷ giá, thì NHTM phải duy trì vốn tự có 13.500.000VNĐ bù đắp sự giảm giá của trái phiếu; tương đương tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu bắt buộc là 9% so với tài sản có rủi ro tương ứng hệ số chuyển đổi rủi ro 100%. Việc phân loại tài sản có rủi ro, từ thấp nhất 1% đến cao nhất 200% có ý nghĩa lớn nhằm xác định được những tổn thất tín dụng phát sinh và cơ chế bù đắp tương ứng. Việt Nam quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% là khá cao. Đây là thách thức lớn đối với ngân hàng và hệ thống ngân hàng, đặc biệt là đối với các NHTM có quy mô nhỏ.

Trên thế giới, tại các nước kinh tế phát triển, đặc biệt các quốc gia thành viên chính thức của Basel III, nguồn vốn của NHTM được phân chia thành 3 cấp tương ứng với 3 mức độ rủi ro, gồm: (i) rủi ro tín dụng, (ii) rủi ro hoạt động và (iii) rủi thị trường. Theo đó, vốn cấp 1 là vốn chủ sở hữu và xem như chủ sở hữu có chất lượng cao nhất, bảo đảm bù đắp các rủi ro phát sinh, đặc biệt là rủi ro tín dụng. Vốn cấp 1 bao gồm: (i) vốn cổ phần phổ thông, (ii) thặng dư vốn cổ phần, (iii) cổ phiếu thường, (iv) lợi nhuận giữ lại, (v) các khoản thu nhập khác và dự trữ đã công bố, (vi) vốn cổ phần phổ thông công ty con hợp nhất, (vii) vốn chủ sở hữu khác, (viii) các công cụ ngân hàng phát hành, (ix) thặng dự vốn cổ phần chưa tính vào vốn cấp 1, (x) các công cụ công ty con phát hành bên thứ ba nắm giữ, (xi) vốn cấp 1 khác. Áp dụng tiêu chuẩn phân chia nguồn vốn thành 3 cấp: vốn cấp 1 bù đắp rủi ro tín dụng, trong khi vốn cấp 2 cho rủi ro hoạt động và vốn cấp 3 bảo đảm rủi ro thị trường. Tiêu chuẩn này phổ biến trên phạm vi toàn cầu, được ứng dụng thành công ở nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ.

Thực hiện đối chiếu, so sánh Thông tư số 22/2019/TT - NHNN với Basel III về xác định vốn chủ sở hữu có sự khác biệt đáng kể về danh mục vốn, Việt Nam quy định vốn cấp 1 có 8 danh mục vốn, trong khi Basel III ghi nhận 11 danh mục vốn. Qua đó cho thấy, quy định của Việt Nam xác định vốn tự có chưa đầy đủ, toàn diện, chưa đạt tiêu chuẩn của Basel III, cần bổ sung thêm một số danh mục vốn có chất lượng.Như vậy, một số danh mục vốn có thanh khoản cao, cần được chọn lọc và bổ sung vốn cấp 1 phù hợp. Ngoài ra, Việt Nam quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9%, cao hơn 1% Basel III (8%), cần điều chỉnh phù hợp.

Thứ hai, quy định của Việt Nam về xác định tài sản có rủi ro còn nhiều bất cập.

Tại mục I2b Điều 1 Quyết định số 986/QĐ-TTg ngày 08 tháng 08 năm 2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, mục tiêu cụ thể “phấn đấu đến cuối năm 2025, tất cả các NHTM áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn, triển khai thí điểm áp dụng Basel II theo phương pháp nâng cao tại NHTM Nhà nước nắm cổ phần chi phối và NHTM cổ phần có chất lượng quản trị tốt đã hoàn thành áp dụng Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn”. Qua đó, cho thấy, phương pháp tiêu chuẩn và phương pháp nâng cao mang ý nghĩa lớn, có tầm quan trọng chiến lược. Hai phương pháp này cho phép xác định thông số rủi ro đúng bản chất của tài sản bảo đảm phân loại tài sản có rủi ro chính xác. Phương pháp chuẩn hóa (Standardised Approach - SA) cho phép NHTM sử dụng kết quả xếp hạng tín dụng của các công ty xếp hạng tín dụng độc lập để xác định trọng số rủi ro của tài sản. Phương pháp này tương đối đơn giản, dễ thực hiện nhưng giao nhiều quyền cho cơ quan giám sát. Phương pháp nâng cao (Internal Ratings Based Advanced Approach - IRBAA) căn cứ trên kết quả xếp hạng tín dụng nội bộ đi kèm điều kiện: dữ liệu có lịch sử, minh bạch, đầy đủ, chi phí thu thập tốn kém. Do vậy, phương pháp này yêu cầu NHTM có một hệ thống công nghệ thông tin chuẩn và tiến tiến. Đây là một thách thức lớn đối hệ thống NHTM hiện nay.

Đến nay, Việt Nam mới tiếp cận phương pháp tiêu chuẩn mà chưa đạt được như chiến lược phát triển ngân hàng theo Quyết định số 986/QĐ - TTg. Cụ thể, “khoản phải đòi Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước hoặc khoản phải đòi được Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh thanh toán hoặc khoản phải đòi được bảo đảm bằng giấy tờ có giá do Chính phủ Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước phát hành hoặc bảo lãnh thanh toán” theo Phụ lục 02 Thông tư số 22/2019/TT - NHNN được phân vào tài sản có rủi ro nhóm 1, hệ số rủi ro 0%. Trong khi đó, Basel III ghi nhận tài sản này hệ số rủi ro là 20%, tiềm ẩn rủi ro nhất định. Để xác định tài sản có rủi ro chính xác, Việt Nam nên tuân thủ phương pháp chuẩn hóa (SA) của Basel III về phân nhóm tài sản có rủi ro và hệ số rủi ro, tránh giải thích ngoại lệ và kéo dài lộ trình thực hiện, hạn chế năng lực cạnh tranh quốc tế đối với hệ thống NHTM.

Thứ ba, quy định định dữ liệu tính toán đầu vào chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.

Theo quy định tại 2 Điều 9 Thông tư số 22/2019/TT - NHNN quy định ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thường xuyên duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 9% và áp dụng như công thức sau:

Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (%) =

Vốn tự có

x 100%

Tổng tài sản Có rủi ro

Giả sử NHTM tuân thủ tuyệt đối quy định nêu trên, liệu rằng kết quả tính toán của công thứctrên có đáng tin cậy không? tỷ lệ an toàn vốn có chính xác không? Dĩ nhiên, kết quả nêu trên phải được thẩm định theo quá trình, tức là dữ liệu đầu vào phải chuẩn, phương pháp chuẩn thì mới chắc rằng kết quả chính xác và hiệu quả. Trong thực tiễn, hiện nay, Việt Nam vẫn sử dụng dữ liệu theo chuẩn mực kế toán riêng (VAS - Vietnamese Accounting Standards). Chuẩn mực kế toán này còn những khác biệt so với báo cáo tài chính quốc tế (IFRS - International Financial Reporting Standarts).

Trên bình diện quốc tế, kết quả thống kê của IFRS.org đã chỉ ra rằng, đến tháng 4/2018, có 144 quốc gia và vùng lãnh thổ trong số 166 quốc gia và vùng lãnh thổ được khảo sát đã bắt buộc sử dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). Phần lớn trong nhóm 22 quốc gia và vùng lãnh thổ còn lại đã cho phép hoặc đang trong lộ trình triển khai áp dụng IFRS). Chỉ còn 7 quốc gia, trong đó có Việt Nam vẫn chỉ sử dụng chuẩn mực kế toán riêng6. Chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) còn một số bất cập nhất định sau đây: (i) VAS hiện chưa có quy định cho phép tài sản và nợ phải trả được đánh giá lại theo giá trị hợp lý tại thời điểm báo cáo; (ii) VAS 21 quy định báo cáo tài chính không bắt buộc phải có báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu; (iii) VAS 3 chỉ cho phép đánh giá lại tài sản cố định là bất động sản, nhà xưởng và thiết bị trong trường hợp có quyết định của Nhà nước, đưa tài sản đi góp vốn liên doanh, liên kết, chia tách, sáp nhập doanh nghiệp và không được ghi nhận phần tổn thất tài sản hàng năm; (iv) VAS 11 quy định lợi thế thương mại được phân bổ dần trong thời gian không quá 10 năm kể từ ngày mua trong giao dịch hợp nhất kinh doanh. Trong khi đó, IFRS 3 quy định doanh nghiệp phải đánh giá giá trị lợi thế thương mại tổn thất. Hay nói khác đi, VAS còn một số chuẩn mực chưa đáp ứng IFRS.

Như vậy, quy định của Việt Nam về phân loại vốn, xác định tài sản rủi ro và dữ liệu đầu vào để tính toán tỷ lệ an toàn vốn chưa phù hợp với Basel III và báo cáo tài chính quốc tế (IFRS).

3. Một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về vốn tự có trong hoạt động của ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, thực hiện phân chia vốn thành 3 cấp theo Basel III. Hoặc Bổ sung Điều 8 Thông tư số 22/2019/TT - NHNN phù hợp.

Trong thực tiễn, việc phân chia vốn của NHTM thành 3 cấp mang ý nghĩa chiến lược. Đây là phương cách tìm ra nguồn vốn chất lượng tốt nhất bù đắp rủi ro tín dụng và các rủi ro khác. Việt Nam tham khảo quốc tế, thực hiện phân chia nguồn vốn thành 3 cấp theo Basel III nhằm bổ sung, bù đắp khoảng trống pháp lý mà trước nay chưa có. Đồng thời, đây là bước tiến lớn để sắp xếp, nâng cao chất lượng nguồn vốn và hướng đến hạn chế rủi ro cho hệ thống NHTM.

Thứ hai, phân loại tài sản có rủi ro và hệ số rủi ro tuân thủ Basel III. Đồng thời, bổ sung Phụ lục 02 Thông tư số 22/2019/TT - NHNN tương thích.

Trong hoạt động ngân hàng, vốn và tài sản có rủi ro có mối quan hệ hữu cơ. Vốn được phân loại nhằm bù đắp tương ứng tổn thất tài sản có rủi ro phát sinh. Trên cơ sở vốn được phân chia thành 3 cấp theo Basel III, NHTM phải phân loại tài sản có rủi ro và hệ số rủi ro tương thích vốn nêu trên. Cả 2 tiêu chuẩn về vốn và tài sản có rủi ro phải chuẩn xác thì kết quả tính toán tỷ lệ an toàn vốn tại 2 Điều 9 Thông tư số 22/2019/TT-NHNN mới khả thi và hiệu quả.

Thứ ba, bổ sung VAS 21 quy định báo cáo tài chính bắt buộc phải có báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu theo IFRS.

Nguồn lực tốt nhất bù đắp rủi ro trong hoạt động của NHTM chính là vốn chủ sở hữu. Sự kiện làm tăng giảm vốn chủ sở hữu cần được cập nhật nhanh chóng, đầy đủ và kịp thời. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với cơ quan giám sát và thị trường. Do vậy, bổ sung báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu tại VAS 21 là cần thiết, bởi nó giữ vai trò rất quan trọng trong việc giữ vững niềm tin thị trường và thu hút đầu tư vào NHTM.

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

1Basel Committee on Banking Supervision (2011), Basel III: A global regulatory framework for more resilient banks and banking systems, tạm dịch: Hiệp ước Basel III: Chuẩn mực quốc tế nhằm thiếp lập NHTM và hệ thống NHTM vững mạnh hơn. Truy cập tại https://www.bis.org/publ/bcbs189.pdf.

2G10 - còn gọi Group of Ten bao gồm 11 quốc gia công nghiệp là Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Anh và Hoa Kỳ. Truy cập tại https://www.bis.org/list/g10publications/

3Khoản 34 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2020.

4Điều 19 Luật Các Tổ chức tín dụng năm 2010.

5Điều 8 Thông tư số 22/2019/TT – NHNN.

6So sánh các khác biệt chính giữa chuẩn mực báo tài chính quốc tế và chuẩn mực kế toán Việt Nam. Truy cập tại https://www.pwc.com/vn/vn/publications/vietnam-publications/ifrs-vas.html

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Quốc hội (2020), Luật Doanh nghiệp năm 2020.
  2. Quốc hội (2010), Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.
  3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2019), Thông tư số 22/2019/TT-NHNN ngày 15 tháng 11 năm 2019 quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
  4. Thủ tướng Chính phủ (2018), Quyết định số 986/QĐ - TTg ngày 08 tháng 08 năm 2018 về việc phê duyệt chiến lược phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.
  5. Bộ Tài chính (2001), Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về ban hành và công bố bốn (04) chuẩn mực kế toán Việt Nam đợt 1.
  6. Bộ Tài chính (2002), Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2002 về ban hành và công bố sáu (06) chuẩn mực kế toán Việt Nam đợt 2.
  7. Bộ Tài chính (2003), Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC ngày 30 tháng 12 năm 2003 về ban hành và công bố sáu (6) chuẩn mực kế toán Việt Nam đợt 3.
  8. Bộ Tài chính (2005), Quyết định số 12/2005/QĐ-BTC ngày 15 tháng 2 năm 2005 về ban hành và công bố sáu (06) chuẩn mực kế toán Việt Nam đợt 4.
  9. Bộ Tài chính (2005), Quyết định số 100/2005/QĐ-BTC ngày 28 tháng 12 năm 2005 về ban hành và công bố bốn (04) chuẩn mực kế toán Việt Nam đợt 5.
  10. Basel Committee on Banking Supervision (1988), Basel I: International Convergence of Capital Measurement and Capital Standards. Truy cập tại https://www.bis.org/publ/bcbs04a.pdf
  11. Basel Committee on Banking Supervision (2006), Basel II: International Convergence of Capital Measurement and Capital Standards. Truy cập tại https://www.bis.org/publ/bcbs128.pdf
  12. 12. Basel Committee on Banking Supervision (2011), Basel III: A global regulatory framework for more resilient banks and banking systems. Truy cập tại https://www.bis.org/publ/bcbs189.pdf

Some recommendatins to improve the effectiveness of Vietnams regulations on commercial banks’ equity and other types of capital

Ph.D Candidate Mai Hoang Duc Duy

School of Economic Law, Unversity of Economic and Law, Viet Nam National University - Ho Chi Minh City

ABSTRACT:

This paper focuses on analyzing the inadequacies and shortcomings in the provisions of the Circular No. 22/2019/TT-NHNN dated November 15, 2019 of the Governor of the Stale Bank of Vietnam on prescribing limits and prudential ratios in operations of banks and foreign bank branches. Based on the paper’s findings, some recommendations and proposals are presented to perfect regulations on commercial banks’ equity and other types of capital to meet the regional and international practices, and requirements raised by the international integration of Vietnam’s banking and captial markets

Keywords: capital, equity, capital adequacy ratio (CAR), risk-weighted assets (RWA), commercial bank.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 19, tháng 8 năm 2021]