Một số giải pháp thúc đẩy sự quốc tế hóa của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

ThS. ĐẶNG PHƯƠNG LINH (Trường Đại học Thương mại)

TÓM TẮT:

Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đã và đang là xu thế nổi bật của kinh tế thế giới đương đại. Hội nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương nhất quán và là nội dung trọng tâm trong chính sách đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế của Đảng ta trong quá trình đổi mới đất nước. Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 12 Hiệp định thương mại tự do (FTA) với 56 quốc gia và nền kinh tế trên thế giới, trong đó các FTA thế hệ mới đã kết thúc đàm phán gồm FTA Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA, 2015) và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP, 2015). Đây là các FTA thế hệ mới với diện cam kết rộng và mức cam kết sâu. Đặc biệt, cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) chính thức hình thành từ ngày 31/12/2015 sẽ mang lại những cơ hội to lớn cho các nước thành viên nhờ khai thác hiệu quả hơn các nguồn lực khu vực, tăng cường khả năng thu hút đầu tư và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Từ khóa: Doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế quốc tế, tự do hóa thương mại, FTA, ASEAN, TPP.

1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam và quá trình quốc tế hóa

Đóng vai trò là thành phần kinh tế chủ yếu của hầu hết các quốc gia, DNNVV có vai trò to lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc phát triển DNNVV góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm bớt chênh lệch giàu nghèo, hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp lớn, đồng thời duy trì và phát triển ngành nghề truyền thống, trong xu thế quốc tế hóa hiện nay. Bước sang một giai đoạn phát triển mới với tốc độ nhanh chóng và trải rộng trên tất cả các lĩnh vực, hội nhập, nền kinh tế thế giới của Việt Nam đã tạo ra không ít cơ hội cho các doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh các ưu thế, quá trình quốc tế hóa khiến các DNNVV phải đối mặt với các thách thức, cũng như tình thế cạnh tranh khốc liệt hơn, đòi hỏi cần có sự thay đổi mạnh mẽ về chính sách từ phía Chính phủ và trong các giải pháp của chính các DNNVV, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV trên thị trường.

Trước đây, trong thập niên 50 của thế kỉ XX, khái niệm “quốc tế hóa doanh nghiệp” bắt đầu xuất hiện và được hiểu đơn giản là khả năng vượt ra ngoài ranh giới quốc gia của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, ở thời điểm đó vẫn chưa có một định nghĩa chính thức nào về khái niệm này. Đến năm 1988, nghiên cứu của Welch và Luostarinen đã định nghĩa quốc tế hóa doanh nghiệp là quá trình một doanh nghiệp tham gia ngày càng sâu vào các hoạt động quốc tế. Và gần đây nhất, Chaiporn (2016) đã đưa ra định nghĩa về quốc tế hóa doanh nghiệp, theo đó quốc tế hóa doanh nghiệp là quá trình doanh nghiệp thay đổi cách thức điều hành, sử dụng các nguồn lực (chiến lược, cơ cấu, nguồn lực, tài chính,…) để hội nhập và thích nghi với môi trường quốc tế. Như vậy, có thể định nghĩa quốc tế hóa là một quá trình từ khi doanh nghiệp bắt đầu thay đổi về các mặt như chiến lược, cơ cấu, nguồn lực, chính sách, mục tiêu,… để dần thích nghi đến khi thực sự tham gia vào môi trường kinh tế quốc tế (Quỳnh Trang, 2004).

Trong các mô hình về quá trình quốc tế hóa, mô hình Uppsala là một trong các lý thuyết được bàn luận nhiều nhất và có ảnh hưởng đến nhiều nghiên cứu về quá trình hội nhập quốc tế của doanh nghiệp, điển hình là các nhà nghiên cứu từ Đại học Uppsala, Thụy Điển (Johanson và Wiedersheim-Paul, 1975; Johanson và Vahlne, 1977). Dựa vào đó, các nhà nghiên cứu đã đề xuất một mô hình độc lập để giải thích quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các doanh nghiệp.

Hình 1: Mô hình hội nhập quốc tế của doanh nghiệp

Sau 20 năm mở cửa hội nhập, Việt Nam đã và đang có quan hệ thương mại với rất nhiều đối tác trên thế giới, trong đó, Việt Nam đã thiết lập quan hệ mật thiết với các nền kinh tế lớn của thế giới như Trung Quốc, Hoa Kỳ, EU,... Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2016, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của các thị trường trên đã đạt con số trên 1 tỷ USD, trong đó, tỷ trọng xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc.

Nhìn chung, trị giá xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNNVV nói riêng đều có sự gia tăng qua các năm. Theo báo cáo của Hiệp hội DNNVV, tính đến hết tháng 11/2016, trị giá xuất khẩu của DNNVV chiếm 18% trong tổng số 159.942.106 nghìn USD trị giá xuất khẩu của các DN Việt Nam. Trong đó, các nước APEC luôn là thị trường xuất khẩu chủ yếu với trị giá xuất khẩu luôn ở mức cao nhất. Bên cạnh đó, tại thị trường EU, các DNNVV trong lĩnh vực dệt may xuất khẩu; thủy sản; da giày,… cũng đã đạt được nhiều thành công trong việc tiếp cận mở rộng thị trường. Bên cạnh đó, nhờ nâng cao công nghệ cũng như chất lượng nguồn nhân lực, các DNNVV Việt Nam đã xây dựng được hệ thống thị trường đầu ra rộng lớn hơn, các sản phẩm cũng dần có khả năng cạnh tranh với những hàng hóa cùng loại, đồng thời khẳng định được chỗ đứng trên thị trường quốc tế.

2. Thực trạng quốc tế hóa của DNNVV Việt Nam

Tác giả đã tiến hành khảo sát điều tra thông qua bảng hỏi các DNNVV đã và đang tham gia quá trình quốc tế hóa, cụ thể là các DNNVV xuất khẩu và/hoặc đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Các câu hỏi xoay quanh chủ đề các ưu thế và thách thức của DNNVV trong quá trình quốc tế hóa.


Nguồn: Kết quả điều tra

Theo kết quả khảo sát điều tra, DN tham gia đều nhận định rằng, các ưu thế có được của nhóm DNNVV có vai trò rất lớn trong việc thúc đẩy quá trình quốc tế hóa. Với 4,2/5 điểm trung bình, ưu thế trong sử dụng ít lao động (chỉ dưới 200 người) được các DNNVV đánh giá có vai trò rất lớn, đặc biệt khi họ phát triển tới giai đoạn 4 của quá trình quốc tế hóa, cũng như trong tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực. Khi các DNNVV bắt đầu có chi nhánh độc lập và xây dựng cơ sở sản xuất ở nước ngoài, nhu cầu bổ sung thêm nguồn nhân lực là nhu cầu thiết yếu. Tuy nhiên, việc đưa người lao động từ Việt Nam sang nước ngoài không những gặp nhiều khó khăn trong thủ tục thị thực, cấp visa và lưu trú, mà còn tốn một khoản tiền không nhỏ giúp người lao động tạo lập những điều kiện cuộc sống ban đầu. Chính vì vậy, các DNNVV buộc phải tuyển dụng thêm lao động nước ngoài. Việc sử dụng ít lao động giúp DNNVV hạn chế được những bất đồng trong văn hóa, ngôn ngữ cũng như ít thời gian trong việc đào tạo người mới.

Hình 2: Đánh giá về các cơ hội quốc tế hóa của các DNNVV Việt Nam

Nguồn: Kết quả điều tra

Bên cạnh sử dụng ít lao động, nguồn vốn hạn chế (dưới 50 tỷ đồng) cũng được đánh giá là một trong các ưu thế vượt trội của DNNVV tại Việt Nam với 3,8 điểm trung bình. So với các tiêu chuẩn và điều kiện tại Việt Nam, tiêu chuẩn và điều kiện xuất khẩu sang thị trường quốc tế khắt khe hơn rất nhiều, điều này đã tăng nguy cơ rủi ro đối với các DNNVV Việt Nam. Lợi thế nguồn vốn nhỏ đã tạo động lực giúp DNNVV Việt Nam mạnh dạn đầu tư vào các sản phẩm, mẫu mã, thị trường mới, đặc biệt là các thị trường yêu cầu cao như EU, Hoa Kỳ,…

Với điểm trung bình 3,7 - xu hướng quốc tế hóa hiện nay cũng được đánh giá là một trong những ưu thế tác động tích cực đến quá trình hội nhập của DNNVV. Việt Nam đã tham gia và hoàn tất đàm phám 12 FTA song phương và đa phương với các nước trên thế giới giúp các DNNVV Việt Nam mở rộng mối quan hệ với các nước dưới sự cam kết và bảo lãnh giữa Chính phủ Việt Nam và các quốc gia khác. Bên cạnh đó, các yếu tố thuộc về đặc điểm linh hoạt, dễ thay đổi các yếu tố như công nghệ, nguồn nguyên liệu, phương thức kinh doanh và ứng phó với những sự thay đổi đột ngột của thị trường cũng được đánh giá ở mức tương đối cao với số điểm dao động từ 3,3 đến 4 điểm. Ưu thế này đã giúp các DNNVV tại Việt Nam dễ dàng hơn trong việc thay đổi để tìm ra hướng đi mới nhằm phù hợp với các thị trường cũng như các thay đổi đột ngột trong nhu cầu sử dụng hàng hóa. Góp mặt trong các yếu tố về lợi thế, sự ưu đãi của Chính phủ Việt Nam cũng được các DNNVV đánh giá khá cao (3,6 điểm). Trong những năm gần đây, đặc biệt là trong thế kỷ 21, Đảng và Chính Phủ Việt Nam đã thực thi nhiều chính sách mở cửa, xây dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý theo hướng đầy đủ hơn, đồng bộ, đơn giản hóa, tạo thuận lợi cho hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp.

Bên cạnh những cơ hội trên, quá trình quốc tế hóa của các DNNVV Việt Nam cũng gặp phải nhiều rủi ro, thách thức:

Hình 3: Đánh giá về các thách thức đối với DNNVV quốc tế hóa

Nguồn: Kết quả điều tra

Các DNNVV đang gặp phải rất nhiều thách thức khi tham gia vào quá trình quốc tế hóa, và đều ở mức cao. Trong các yếu tố đặt ra, nhóm yếu tố được đánh giá ở mức điểm cao nhất là thách thức từ các hàng rào tài chính và phi tài chính của các quốc gia với số điểm trung bình lần lượt là 4 và 4,2 điểm. Bên cạnh các quy định về các quy tắc kinh tế, thương mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư trong nhóm rào cản tài chính hiện nay..., các DNNVV hiện nay đang gặp rất nhiều rào cản phi thuế quan, đặc biệt từ các nền kinh tế phát triển, có thể kể đến như: Thị trường EU có hệ thống kiểm tra chứng nhận thủy sản khai thác tự nhiên có khai báo, có kiểm soát; Hoa Kỳ có Luật hiện đại hóa thực phẩm; Luật trang trại, điều tra chống bán phá giá cá tra,... Những rào cản này đã và đang gây ra rất nhiều khó khăn và thiệt hại về kinh tế cho các DNNVV xuất khẩu.

Đứng thứ hai trong các thách thức được đánh giá ở mức cao, sự cạnh tranh với các DN lớn và DN nước ngoài mà các DNNVV gặp phải được đánh giá 4,1 điểm. Lợi thế thị trường nội địa giảm đi, để duy trì và phát triển buộc các DNNVV phải cạnh tranh với hàng hóa của các nước. Vì vậy, các DNNVV sẽ phải tự đổi mới, nâng cao, hoàn thiện bản thân và tiến hành kinh doanh ở các thị trường mới để có thể cạnh tranh với các DN khác, đặc biệt là với sự am hiểu là kinh nghiệm kinh doanh của các DN bản địa. Các nhóm thách thức xuất phát từ những điểm yếu của DNNVV về sự thiếu hụt trong nguồn vốn, sự hạn chế trong chất lượng nguồn nhân lực và công nghệ với số điểm được đánh giá lần lượt là 3,8; 3,7 và 3,6 điểm.

Hiện nay, cả nguồn vốn, chất lượng nguồn nhân lực, công nghệ đều đang là những điểm yếu của DNNVV Việt Nam. Điển hình như theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong 85% trong tổng số DNNVV hiện nay thực hiện lập kế hoạch dự báo nhu cầu dựa trên số lượng lao động cần thay thế, chỉ có khoảng 15% là dựa vào sự thay đổi về khoa học, công nghệ, nhu cầu sản phẩm và dịch vụ, quy mô vốn… Điều này đã dẫn đến rất nhiều bất cập, mâu thuẫn trong quá trình quản lí và sản xuất, đặc biệt, khi các DNNVV Việt Nam đi tới giai đoạn 4: Xây dựng cơ sở sản xuất trực tiếp tại nước ngoài, yếu tố nguồn nguyên vật liệu sản xuất đã nổi lên như một thách thức khá khó khăn đối với các DNNVV với 3,19 điểm đánh giá. Với điều kiện địa hình, thời tiết, giá thành sản phẩm tại nước ngoài khác khá nhiều so với điều kiện tại Việt Nam, việc các DNNVV có thể tìm ra một nguồn nguyên liệu thay vì phải nhập khẩu nguyên liệu từ Việt Nam, đòi hỏi các DNNVV cần phải có các kế hoạch, tính toán cụ thể, nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Một số yếu tố như kênh phân phối, sự khác biệt về văn hóa phong tục cũng như yêu cầu về hiểu biết pháp lí của nước xuất khẩu đến, cũng được đánh giá là những thách thức ảnh hưởng tới quá trình mở rộng thị trường ra nước ngoài của các DNNVV, đặc biệt là tại các thị trường châu Âu, châu Mỹ,… nơi có chế độ chính trị, văn hóa khác biệt với Việt Nam.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, để nâng cao hiệu quả của các chính sách tài chính cho quá trình quốc tế hóa, chính phủ cần thực hiện một số giải pháp, như: đẩy mạnh việc thành lập, tổ chức và hoạt động Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, giúp DNNVV có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế chấp. Đồng thời huy động và tìm kiếm các nguồn vốn cho Quỹ từ các nguồn trợ cấp hoặc giúp đỡ của các tổ chức nước ngoài như JBIC, SNV, UNDP,… hoặc hợp tác với các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế thực hiện các hoạt động bảo lãnh tín dụng cho DNNVV. Bên cạnh đó, Nhà nước cần chú trọng công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính sách về tài sản thế chấp khi vay vốn ngân hàng, tạo điều kiện giúp các DNNVV không có tài sản thế chấp có thể vay vốn tại các ngân hàng; đồng thời mở rộng hình thức tín dụng thuê mua giúp các DNNVV khắc phục khó khăn về vốn để đầu tư đổi mới công nghệ mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, Chính phủ cũng nên cân nhắc thay đổi các quy định về thuế xuất khẩu, khập khẩu nguyên liệu theo hướng tạo điều kiện giảm chi phí cho các DNNVV.

Về phía các DNNVV, để mở rộng nguồn tài chính, các DNNVV cần nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn bằng cách thường xuyên cập nhật các chương trình, chính sách mới của Nhà nước, của các ngân hàng. Đồng thời, các DNNVV cần xây dựng phương án sản xuất mang tính khả thi cao làm cơ sở vay vốn với các nội dung của phương án xoay quanh các vấn đề về mục tiêu cần đạt được, dự tính được kết quả kinh doanh, khả năng tiếp cận vốn, khả năng hoàn trả vốn, dự toán tổng kinh phí đầu tư, chí phí tài sản cố định, vốn lưu động, cách thức tổ chức quản lý sản xuất, lao động, đào tạo và kế hoạch dự trù cần đối thu chi và kế hoạch vay trả ngân hàng,... Bên cạnh đó, để nâng cao uy tín DN, các DNNVV cần nghiêm chỉnh thực hiện các quy định về hạch toán, kế toán và báo cáo đầy đủ trong các báo cáo tài chính hàng năm, tạo cơ sở để nhận được sự tín nhiệm từ Nhà nước và các ngân hàng, giúp cho việc tiếp cận vốn vay của các DNNVV trở nên dễ dàng hơn.

Thứ hai, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong cách DNNVV, trước hết từ phía Nhà nước, Chính phủ và các bộ ngành quản lí cần có một chiến lược nguồn nhân lực chủ động cho các DNNVV trên cơ sở các cơ cấu ngành nghề hiện có. Cụ thể bằng một số biện pháp như: mở rộng chương trình khởi sự doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc; thực hiện chính sách xã hội hóa công tác dạy nghề và Nhà nước phải thống nhất quản lý tiêu chuẩn đào tạo. Đồng thời, Chính phủ cần tiếp tục điều chỉnh cơ cấu đào tạo theo hướng nâng cao tay nghề cho người lao động, cũng như sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí đào tạo của Nhà nước hoặc do các tổ chức quốc tế hỗ trợ thông qua việc lồng ghép các chương trình dự án để tránh lãng phí.

Bên cạnh đó, các DNNVV cần tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động học tập trong việc hỗ trợ kinh phí, thời gian, bố trí người làm thay để người lao động toàn tâm, toàn ý cho quá trình học tập. Trong lựa chọn hình thức đào tạo và phát triển, cần lên kế hoạch cụ thể trong đó xác định rõ mục tiêu, đối tượng, kinh phí và giảng viên. DNNVV cũng nên lựa chọn một số chương trình đào tạo phù hợp trên thị trường, cho cán bộ quản lý chủ chốt theo học, cũng như khuyến khích nhân viên tự học và học qua internet nhằm hạn chế ảnh hưởng tới thời gian làm việc. Đối với nguồn nhân lực quản lí, các DNNVV cần có khuyến khích họ tham gia các lớp bồi dưỡng, các khóa đào tạo quản trị, hay tham gia các buổi hội thảo của nhà nước nhằm nâng cao khả năng quản lí đồng thời nâng cao hiểu biết về các quy định, chính sách của pháp luật hiện hành. Mặt khác, các DNNVV cũng cần xây dựng văn hóa DN theo hướng tạo môi trường làm việc thân thiện và chuyên nghiệp, công nhận và khen thưởng nhân viên, nhằm tạo động lực làm việc cho người lao động, góp phần thu hút được nhân viên giỏi.

Thứ ba, nâng cao năng lực cạnh tranh. Để nâng cao sự cạnh tranh đối với các doanh nghiệp bản địa tại nước xuất khẩu đến, các DNNVV cần xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn, hợp lý nhằm chủ động hơn trong việc xử lý được các vấn đề xảy ra, tận dụng được các cơ hội, lường trước được các khó khăn và thích ứng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của quá trình quốc tế hóa. Bên cạnh đó, các DNNVV cần phân tích kỹ và thiết lập một chiến lược kinh doanh dựa trên xu hướng nhu cầu của các thị trường và khả năng đáp ứng của bản thân DNNVV. Mỗi doanh nghiệp cần có một chiến lược kinh doanh riêng phù hợp với khả năng về vốn, trình độ và năng lực nguồn lao động cũng như các yêu cầu về thị trường của doanh nghiệp trong từng giai đoạn nhất định. Ngoài ra, để nâng cao khả năng cạnh trên trên nước bạn, các DNNVV cần nâng cao tính hợp tác, liên kết, để hình thành các hiệp hội ngành nghề để đảm bảo chỗ đững của sản phẩm trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ tư, chủ động nguồn nguyên vật liệu. Để phục vụ cho quá trình xây dựng cơ sở sản xuất tại nước ngoài, các DNNVV cần xây dựng các kế hoạch, lộ trình cụ thể trong việc thay đổi nguồn nguyên liệu, theo hướng đảm bảo chất lượng, giá thành của sản phẩm. Bên cạnh đó, đối với các DNNVV chưa thể tìm được nguồn nguyên liệu phù hợp thay thế, Chính phủ cũng cần tạo điều kiện giảm thuế xuất khẩu với các nguyên liệu trong nước. Điều này sẽ giúp các DNNVV giảm được rất nhiều chi phí trong quá trình vận chuyển nguyên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất tại nước ngoài.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Assaf, A. G., Josiassen, A., Ratchford, B. T., Barros, C. P. (2012), “Internationalization and performance of retail firms: a Bayesian dynamic model”, Journal of Retailing, Vol. 88, No. 2, pp. 191-205.

2. Charles Martineau, David Pastoriza (2016), “International involvement of established SMEs: A systematic review of antecedents, outcomes and moderators”, International Business Review, Volume 25, Issue 2.

3. Gospel Onyema Oparaocha (2015), “SMEs and international entrepreneurship: An institutional network perspective”, International Business Review, Volume 24, Issue 5.

4. Hollensen Svend (2007), Global Marketing: A Decision-Oriented Approach, Prentice Hall, 4 edition June 4, 2007.

5. Niccolo Pisani, Adrián Caldart, Jặl Hopma (2016), “SMEs formation of minority international joint ventures and level of internationalization: The moderating role of a global versus regional focus”, European Management Journal, In Press, Corrected Proof.

6. WangYao (2016), “What are the biggest obstacles to growth of SMEs in developing countries? - An empirical evidence from an enterprise survey”, Borsa Istanbul Review, Volume 16, Issue 3.

SOLUTIONS TO ACCELERATE THE INTERNATIONAL

ECONOMIC INTEGRATION PROCESS AT VIETNAMESE SMES

Master. DANG PHUONG LINH

Vietnam Commercial University

ABSTRACT:

Globalization, international economic integration and trade liberalization have been mega trends of the contemporary global economy. The international economic integration process is a consistent and central policy of Vietnamese government in the context the countrys renovation process. Vietnam has participated in 12 Free Trade Agreements (FTAs) with 56 countries and economic blocks. In which, negotiation of some new-generation FTAs such as Vietnam - EU Free Trade Agreement (EVFTA, 2015) has been completed. In particular, the establishment of ASEAN Economic Community (AEC) on December 31, 2015 is expected to bring enormous opportunities to AECs members by optimizing regional resources, attracting more investment and joining global value chains.

Keywords: Small and medium-sized enterprises, international economy, trade liberalization, FTA, ASEAN, TPP.

Xem toàn bộ ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 03 tháng 03/2017 tại đây