New Zealand dự kiến nới lỏng kiểm dịch thực vật với một số trái cây Việt Nam

New Zealand đang xem xét giảm yêu cầu kiểm dịch thực vật trước khi xuất khẩu đối với tiêu chuẩn sức khỏe chôm chôm tươi nhập khẩu từ Việt Nam.

Văn phòng SPS Việt Nam cho biết, từ ngày 21/8 - 20/9/2023, Văn phòng SPS Việt Nam đã nhận được 11 thông báo của New Zealand về các dự thảo quy định liên quan đến an toàn thực phẩm và kiểm dịch động, thực vật (SPS) có thể ảnh hưởng tới mặt hàng nông, lâm và thủy sản xuất khẩu của Việt Nam.

Trong đó có một số thông báo đáng chú ý.

kiểm dịch thực vật
New Zealand đang xem xét giảm yêu cầu kiểm dịch thực vật trước khi xuất khẩu đối với tiêu chuẩn sức khỏe chôm chôm tươi nhập khẩu từ Việt Nam.

Xem xét điều chỉnh phù hợp tiêu chuẩn quốc tế về các biện pháp kiểm dịch thực vật

Thông báo số G/SPS/N/NZL/742 ngày 19/9/2023 cho biết, Bộ Công nghiệp cơ bản (Ministry for Primary Industries - MPI) của New Zealand đang xem xét các yêu cầu kiểm dịch thực vật trước khi xuất khẩu đối với tiêu chuẩn sức khỏe về chôm chôm tươi nhập khẩu từ Việt Nam. Những thay đổi được đề xuất sẽ loại bỏ yêu cầu NPPO phải kiểm tra từng lô của người trồng và có thể xác định tính đồng nhất của lô theo ISPM 31.

Thông báo số G/SPS/N/NZL/740 ngày 19/9/2023 nêu, MPI đang xem xét các yêu cầu kiểm dịch thực vật trước khi xuất khẩu đối với tất cả rau quả nhập khẩu (từ tất cả các nước) theo tiêu chuẩn sức khỏe nhập khẩu 152.02. Những thay đổi được đề xuất sẽ điều chỉnh tiêu chuẩn cho phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế liên quan về các biện pháp kiểm dịch thực vật. MPI cũng đang đề xuất loại Peronoscleraspora sorghi khỏi danh sách dịch hại đối với ngô ngọt từ Australia.

Thông báo số G/SPS/N/NZL/738 ngày 14/09/2023 thông tin những thay đổi về dịch hại cần áp dụng các biện pháp kiểm dịch thực vật trên cây có múi (Citrus limon); những thay đổi để điều chỉnh các yêu cầu về mẫu kiểm dịch thực vật phù hợp với ISPM 31.

Các khu vực hoặc quốc gia cụ thể bao gồm: Australia; Brazil; Trung Quốc; Ai Cập; Fiji; Mexico; Peru; Samoa; Mỹ; Vanuatu; Việt Nam.

Thông báo số G/SPS/N/NZL/736 ngày 13/9/2023 thông báo những thay đổi về dịch hại cần áp dụng các biện pháp kiểm dịch thực vật trên cây có múi tươi (Citrus aurantiifolia); những thay đổi để điều chỉnh các yêu cầu về mẫu kiểm dịch thực vật phù hợp với ISPM 31.

Các khu vực hoặc quốc gia cụ thể: Australia; Ai Cập; Peru; Quần đảo Solomon; Mỹ; Vanuatu; Việt Nam và New Caledonia

Thông báo số G/SPS/N/NZL/734 ngày 13/9/2023, nội dung là những thay đổi về dịch hại cần áp dụng các biện pháp kiểm dịch thực vật trên cây có múi tươi (Citrus maxima); thay đổi để phù hợp với kiểm dịch thực vật yêu cầu mẫu kiểm tra với ISPM 31.

Các khu vực hoặc quốc gia cụ thể: Trung Quốc; Ai Cập; Samoa; Hòa Kỳ; Vanuatu; Việt Nam

Thông báo số G/SPS/N/NZL/733 ngày 13/9/2023 thông báo những thay đổi về dịch hại cần áp dụng các biện pháp KDTV trên cây có múi tươi (Citrus latifolia); những thay đổi để điều chỉnh các yêu cầu về mẫu kiểm dịch thực vật phù hợp với ISPM 31.

Các khu vực hoặc quốc gia cụ thể: Australia; Brazil; Fiji; Mexico; Peru; Samoa; Vanuatu; Việt Nam; Quần đảo Cook và New Caledonia

Đề xuất sửa đổi mức dư lượng tối đa với một số hợp chất và hàng hóa

Thông báo số G/SPS/N/NZL/732 ngày 13/9/2023 có nội dung thông báo các chi tiết kỹ thuật về các đề xuất sửa đổi thông báo hiện hành được ban hành theo Đạo luật Thực phẩm 2014, trong đó liệt kê mức dư lượng tối đa (MRL) đối với các hợp chất nông nghiệp ở New Zealand.

Cụ thể, MPI đề xuất sửa đổi Thông báo như sau:

Việc sửa đổi các mục MRL hiện có đối với các hợp chất và hàng hóa: Fenpyrazamine: 0,05 mg/kg trong nho; Fenpyroximate: 0,15 mg/kg trong bơ; Fluxapyroxad: 0,15 mg/kg đối với lúa mì, lúa mạch đen và hạt tiểu hắc mạch; và 0,9 mg/kg đối với lúa mạch và hạt yến mạch; Mefentrifluconazole: 0,5 mg/kg đối với lúa mạch đen và hạt tiểu hắc mạch; và 3 mg/kg đối với lúa mạch và hạt yến mạch; và Sulfoxaflor: 0,01 đối với trứng, mỡ gia cầm, thịt gia cầm; 0,03 mg/kg đối với nội tạng gia cầm; và 0,2 mg/kg đối với nội tạng động vật có vú. MRL cho thận và gan của động vật có vú sẽ được thu hồi.

Thông báo số G/SPS/N/NZL/731 ngày 25/8/2023 thông báo các chi tiết kỹ thuật về các đề xuất sửa đổi thông báo hiện hành được ban hành theo Đạo luật Thực phẩm 2014, trong đó liệt kê mức dư lượng tối đa (MRL) đối với các hợp chất nông nghiệp ở New Zealand.

Cụ thể, MPI đề xuất những sửa đổi sau đây đối với Thông báo:

Sửa đổi các mục hiện có trong Phụ lục 1, Mức dư lượng tối đa đối với các hợp chất nông nghiệp, đối với các hợp chất và hàng hóa sau:

Sửa đổi mục dành cho carbendazim, để sửa lại định nghĩa dư lượng;

Sửa đổi mục đối với cyromazine, để sửa lại định nghĩa dư lượng và đặt MRL mới ở mức 0,2 mg/kg đối với trứng, 0,05 mg/kg đối với thịt gia cầm, 0,05 mg/kg đối với nội tạng gia cầm, 0,3 mg/kg đối với nội tạng ăn được của cừu, 0,3 mg/kg đối với mỡ cừu và 0,01 mg/kg đối với sữa cừu;

Mục mới dành cho fluoxapiprolin, đặt MRL ở mức 0,09 mg/kg đối với cà chua và 0,01(*) mg/kg đối với khoai tây; và − Sửa đổi mục nhập dành cho fluralaner, để đặt MRL mới ở mức 0,01(*) mg/kg trong mỡ cừu, 0,01(*) mg/kg ở thận cừu, 0,01(*) mg/kg ở gan cừu và 0,005 (*) mg/kg trong thịt cừu.

Lưu ý: (*) biểu thị mức dư lượng tối đa đã được đặt ở hoặc xấp xỉ giới hạn định lượng phân tích;

Việc bổ sung hai mục mới trong Phụ lục 2, đối với Hóa chất nông nghiệp không áp dụng mức dư lượng tối đa, đối với axit 1-aminocyclopropane-carboxylic (ACC), khi được sử dụng làm chất điều hòa sinh trưởng thực vật và đối với peptide Flg22-Bt, khi dùng làm hóa chất nông nghiệp;

Việc bổ sung mục mới trong Phụ lục 3, đối với thuốc thú y không áp dụng mức dư lượng tối đa, đối với axit adrenaline tartrate, khi được sử dụng ở bê sau khi cắt sừng, ở cừu sau khi cắt đuôi, và ở bê và cừu non sau khi thiến. Việc sửa đổi mục hiện có trong Phụ lục 3 đối với axit oxalic, để bổ sung thêm tham chiếu đến axit oxalic dihydrat.

Thông báo số G/SPS/N/NZL/730 ngày 25/8/2023 thông báo Tiêu chuẩn chất thải được đề xuất sẽ thu hồi tiêu chuẩn vật liệu rủi ro vô cơ hiện hành.

Những thay đổi lớn đối với tiêu chuẩn bao gồm việc bổ sung các nhà cung cấp dịch vụ xử lý ngoài khơi và điều chỉnh khung thời gian xử lý. Ngoài ra còn có việc làm rõ các thủ tục hiện hành và mở rộng phạm vi các mặt hàng có thể nhập khẩu (như bìa cứng, giấy, nhựa, chất thải nguy hại để tiêu hủy, kim loại phế liệu và amiăng để tiêu hủy,….). Do việc mở rộng phạm vi, tên tiêu chuẩn cũng đã được đổi thành tiêu chuẩn y tế nhập khẩu đối với chất thải để thu hồi, tái xử lý, tái chế hoặc xử lý (chất thải).

Theo số liệu của Cục Thống kê New Zealand, kim ngạch hai chiều với Việt Nam trong 7 tháng đầu năm 2023 đạt 1,48 tỷ đô la New Zealand (NZD), tăng 1,4% so với cùng kỳ năm 2022; trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 868,1 triệu NZD, tăng 3,8%, kim ngạch nhập khẩu từ New Zealand đạt 614,3 triệu NZD, giảm 2,0%.

Trong đó, Việt Nam tăng trưởng xuất khẩu mạnh sang New Zealand ở các mặt hàng như: trái cây, hạt tăng 14,5% đạt 21,2 triệu NZD; các loại chế phẩm ăn được tăng 44% đạt 10,92 triệu NZD; các chất tẩy rửa bề mặt tăng trưởng 24,4% đạt 24,9 triệu NZD; sản phẩm giấy tăng 21,8% đạt 10,2 triệu NZD; máy móc, thiết bị tăng 50,5% đạt 438,6 triệu NZD…

Việt Hằng