Tuy nhiên, trong quá trình thử nghiệm năm 2016 đã xuất hiện những hiện tượng sụt lún trên bề mặt bãi thải cách mép bãi thải từ 15¸30m, buộc phải dừng công tác đổ thải để tiến hành xử lý…

Sự ra đời của một đề tài

Từ thực tế này, Than Cao Sơn đã nghiên cứu thực hiện đề tài “Nghiên cứu lựa chọn giải pháp đổ thải đất đá bằng băng tải theo hình thức bãi thải cao trong điều kiện bãi thải Bàng Nâu”.

Hệ thống băng tải thải đất đá trực tiếp trên bề mặt bãi thải, sau đó dùng máy gạt hoặc máy xúc để gạt hoặc xúc chuyển xuống sườn tầng thải. Đồng thời, tích cực đổ thải bằng ô tô kết hợp với máy gạt ở các tầng phía dưới nhằm hạ thấp chiều cao tầng đổ thải bằng băng tải. Thoát nước tốt không chỉ trên bề mặt bãi thải mà còn cả đối với dưới chân bãi thải.

Than Cao Sơn cho nhân viên sử dụng ô tô và máy gạt đổ thải tuyến đê bao quanh khu vực đổ thải của hệ thống băng tải theo từng giai đoạn (nếu công tác giải phóng mặt bằng được thực hiện theo giai đoạn) hoặc toàn bộ bãi thải (nếu công tác giải phóng mặt bằng được thực hiện toàn bộ ngay trong thời gian đầu) tạo thành thung lũng nhân tạo. Trong quá trình đổ thải, thường xuyên tổ chức theo dõi, nếu xuất hiện dấu hiệu trượt lở hay sụt lún bãi thải thì phải dừng công tác đổ thải, đưa cầu thải ra khỏi vùng nguy hiểm và phải tiến hành xử lý kịp thời. Công tác đổ thải bằng hệ thống băng tải chỉ được tiến hành trở lại khi hiện tượng trượt lở hay sụt lún bãi thải đã được xử lý.

Bên cạnh đó là cải tạo tầng sau khi đổ thải bằng hệ thống băng tải là sử dụng ô tô vận chuyển đất đá từ khai trường tới đổ thải từng tầng một từ dưới lên bám theo sườn tầng thải của hệ thống băng tải.

Ngoài ra, cũng tiến hành trồng cây phục hồi môi trường tại những vị trí đã dừng công tác đổ thải ngay khi có thể, xây dựng hệ thống thoát nước và đê đập môi trường theo các đề án đã được phê duyệt.

bãi thải
Các bãi thải của ngành Than đang được trồng cây đem lại mầu xanh cho môi trường

 

Kết quả áp dụng các giải pháp của đề tài

Phối hợp, tạo điều kiện để Công ty TNHH MTV Khai thác Khoáng sản - Tổng Công ty Đông Bắc tiến hành đổ thải tại khu vực giáp ranh trước, tạo hành lang an toàn khi đổ thải bằng băng tải.

Tiến hành đổ thải bằng ôtô tạo tuyến đê mức +80 quanh khu vực đổ thải của hệ thống băng tải theo từng giai đoạn.

Phối hợp với nhà thầu Tân Phú Xuân thực hiện đổ thải theo trình tự: Hệ thống băng tải thải đất đá trực tiếp trên bề mặt bãi thải, sau đó dùng máy xúc thủy lực gầu ngược xúc chuyển xuống sườn tầng thải kết hợp xúc cải tạo bề mặt bãi thải; kịp thời giải quyết các phát sinh trong quá trình đổ thải, phối hợp kiểm tra lập phương án và triển khai đổ thải bù lún khi cần thiết đảm bảo ổn định bề mặt bãi thải.

Bên cạnh đó, phối hợp với nhà thầu Tân Phú Xuân thực hiện đổ thải theo trình tự: Hệ thống băng tải thải đất đá trực tiếp trên bề mặt bãi thải, sau đó dùng máy xúc thủy lực gầu ngược xúc chuyển xuống sườn tầng thải kết hợp xúc cải tạo bề mặt bãi thải; kịp thời giải quyết các phát sinh trong quá trình đổ thải, phối hợp kiểm tra lập phương án và triển khai đổ thải bù lún khi cần thiết đảm bảo ổn định bề mặt bãi thải.

Tiến hành đổ thải bằng ô tô kết hợp với máy gạt tạo các phân tầng +180, +150, +120 chiều cao tầng < 50 mét, kết hợp với thi công các công trình thoát nước chân tầng, mặt tầng thải hạn chế việc nước mặt phá hủy bề mặt và sườn bãi thải gây ra các hiện tượng sụt lún.

Với những giải pháp trên và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các đơn vị đã cơ bản khắc phục được những tồn tại, khó khăn vì vậy năm 2018 và 9 tháng năm 2019 hệ thống băng tải đã hoạt động dần ổn định, năng suất dần được nâng cao. Khối lượng vận chuyển bằng băng tải năm 2018 đạt 17.021.080 m3 tăng 4.046.316 m3 tương đương tăng 31,2% so với 2017. Chỉ trong 9 tháng năm 2019, đạt 14.693.931 m3, đạt 73,47% kế hoạch năm, dự kiến cả năm 2019 đạt 20.000.000 m3, đạt công suất thiết kế.

Kết quả áp dụng các giải pháp đề tài “Nghiên cứu lựa chọn giải pháp đổ thải đất đá bằng băng tải theo hình thức bãi thải cao trong điều kiện bãi thải Bàng Nâu” đã mang lại hiệu quả nhất định, khẳng định vai trò của KH&CN đối với phát triển sản xuất, góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy áp dụng công nghệ mới, tiên tiến trên thế giới vào điều kiện thực tế ở ngành than và Việt Nam.