Những công cụ tiếp cận thị trường EVFTA

Các công cụ tiếp cận thị trường EVFTA đến từ cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp cũng có những công cụ của mình.
Đầu bếp nổi tiếng người Pháp Fédéric Jaunault (áo vàng) trực tiếp giới thiệu nông sản Việt tại chợ đầu mối nông sản quốc tế Rungis ở ngoại ô Paris
Đầu bếp nổi tiếng người Pháp Fédéric Jaunault (áo vàng) trực tiếp giới thiệu nông sản Việt tại chợ đầu mối nông sản quốc tế Rungis ở ngoại ô Paris

Công cụ đã có

Phát biểu tại “Hội nghị trực tuyến hỗ trợ doanh nghiệp SMEs tận dụng cơ hội, thực thi hiệu quả EVFTA”, nhiều hiệp hội ngành hàng cho rằng, với FTA này, chúng ta đã có công cụ nền tảng quan trọng cho doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng tiếp cận thị trường EU rộng lớn

Công cụ nền tảng mà các hiệp hội nói ở đây là điều kiện ưu đãi thuế quan; là thuận lợi hóa thương mại, là những hàng rào kỹ thuật đã được 2 bên thống nhất về cách hiểu và điều kiện thực thi, được minh bạch hóa trong EVFTA.

Công cụ nền tảng còn là những giải pháp mà các đơn vị thuộc Bộ Công Thương đưa ra giúp doanh nghiệp nâng năng lực sản xuất và quản trị như đề xuất phát triển công nghiệp phụ trợ đủ mạnh, đáp ứng nhu cầu về nguyên phụ liệu để gia tăng hàm lượng nội địa cho hàng hóa xuất khẩu, đảm bảo đáp ứng quy tắc xuất xứ; tổ chức lại sản xuất ngành nông nghiệp theo hướng đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc…

Công cụ nền tảng cũng là đổi mới hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng tăng cường các hoạt động xây dựng thương hiệu, vốn là yếu tố quan trọng nhất đến thị hiếu của người tiêu dùng EU và ứng dụng xúc tiến thương mại trực tuyến, là hình thức mới hiện nay.

Bên cạnh đó, Bộ Công Thương sẽ chỉ đạo hệ thống Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài củng cố, tăng cường công tác thông tin, cung cấp cho doanh nghiệp các phân tích, dự báo tình hình thị trường cũng như danh sách nhà xuất khẩu, nhập khẩu uy tín của EU.

Đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương, hiệp hội ngành hàng phổ biến những kiến thức cốt lõi nhất của EVFTA từ quy định xuất xứ, hàng rào kỹ thuật đến thói quen giao dịch, tập quán tiêu dùng…

Thông qua các hoạt động này, các địa phương có được những thông tin, nghiên cứu nền tảng để dựa trên cơ sở lợi thế về điều kiện tự nhiên, lao động, sản xuất sẽ có kế hoạch phát triển sản xuất, xuất khẩu thông qua thu hút đầu tư vào các lĩnh vực ngành hàng mà địa phương có lợi thế.

Doanh nghiệp cũng có thông tin tìm hướng hợp tác với các thị trường đối tác của Hiệp định để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm tận dụng hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn; và là cơ hội tốt để các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi cung ứng Việt Nam - EU.

Nguyên liệu và tổ chức sản xuất

Có 10 ngành hàng được coi có cơ hội lớn trong khai thác EVFTA. Trước hết là nhóm Nông sản thực phẩm, có 6 ngành hàng: Thủy sản, Trái cây tươi, Cà phê, hạt Điều, hồ Tiêu, Cao su; Nhóm Công nghiệp chế biến, 3 ngành hàng: Dệt may, Da giày, đồ Gỗ; và nhóm hàng Điện tử.

Doanh nghiệp điện tử tìm cơ hội trở thành “nhà cung cấp linh kiện” cho các đối tác ngay tại thị trường nội địa
Doanh nghiệp điện tử tìm cơ hội trở thành “nhà cung cấp linh kiện” cho các đối tác ngay tại thị trường nội địa

Doanh nghiệp trong 10 nhóm này cũng có công cụ của mình. Công cụ thứ nhất là đầu tư vào nguyên liệu nhằm bảo đảm tỷ lệ xuất xứ theo quy định của EVFTA.  

Điển hình là dệt may, ngay trong giai đoạn đàm phán Bộ Công Thương và Hiệp hội Dệt may cũng đã đẩy mạnh kêu gọi dòng đầu tư trong và ngoài nước vào lĩnh vực dệt nhuộm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành dệt may trong cuộc chơi mới.

Trong hai năm 2018 - 2019 và ngay cả đầu năm 2020, dù dịch Covid-19 bùng phát, vẫn có một số dự án đầu tư mới, đầu tư mở rộng vào ngành dệt nhuộm, bù đắp cho nguồn cung thiếu hụt của ngành dệt may.

Riêng tại Tập đoàn Dệt may Việt Nam, đầu tư mới cho sản xuất sợi - dệt vải chiếm tỷ lệ 90% đầu tư của Tập đoàn từ năm 2016 tới nay. Tỷ lệ nội địa hóa của Vinatex đạt 56%. Việt Nam hiện đã sản xuất được khoảng 3 tỷ mét vải/năm. Vùng sản xuất nguyên liệu đã được mở ra với quy mô lớn vượt trội, trong đó có cả doanh nghiệp trong và ngoài nước, như Sợi Thiên Nam, Sợi - Vải Nam Định, Sợi Phú Bài, Sợi - Dệt 8/3, Sợi Texhong,…

Mặt khác, doanh nghiệp đã nhập khẩu tới 20% lượng vải từ Hàn Quốc trong tổng lượng vải nhập để sản xuất phục vụ xuất khẩu, và cũng nhập một lượng đáng kể vải cao cấp từ Nhật Bản. Đây cũng là hai quốc gia có FTA với EU nên đáp ứng được yêu cầu quy tắc “xuất xứ cộng gộp” mà EVFTA đưa ra.

Nên cho đến thời điểm này, phần lớn doanh nghiệp dệt may làm hàng xuất khẩu có thể tạm yên tâm, như Phó Tổng Giám đốcTập đoàn Dệt May Việt Nam Cao Hữu Hiếu khẳng định: “Trong tổng lượng xuất khẩu tới châu Âu, doanh nghiệp dệt may cần khoảng 2 tỷ mét vải. Việc cần làm là cân đối điều chỉnh lượng vải sản xuất trong nước, vải nhập từ Hàn Quốc và Nhật Bản cho các đơn hàng may mặc xuất đi châu Âu, là hoàn toàn nằm trong tầm tay của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam”.

Ngay cả với doanh nghiệp điện tử, thách thức lớn đối với các là hầu như chưa có công nghệ lõi, thì với góc nhìn của người trong cuộc, bà Đỗ Thị Thúy Hương, Ủy viên Ban chấp hành Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam cũng cho rằng, sự tích cực, chủ động của Bộ Công Thương trong việc đàm phán EVFTA và nỗ lực trong phổ biến rộng rãi tới cộng đồng doanh nghiệp, đã giúp doanh nghiện điện tử tìm ra cơ hội trở thành nhà cung cấp linh kiện cho các đối tác ngay tại thị trường nội địa.

Công cụ thứ hai, chủ yếu dành cho những ngành hàng hàng nông sản vốn đã có xuất xứ thuần túy sẽ sử dụng việc tổ chức lại sản xuất, đảm bảo các điều kiện về tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm

Với doanh nghiệp thủy sản, nỗi lo lớn nhất của các doanh nghiệp chế biến hản sản xuất khẩu là tình trạng thiếu hụt nguyên liệu. Những mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất vào EU gồm cá ngừ, tôm, cá tra có tới 65-70% giá trị xuất khẩu cá ngừ đến từ nguyên liệu nhập khẩu.

Riêng con tôm có lợi thế rõ rệt đang nghiêng về Việt Nam. Nhất là với tôm sú được giảm từ mức thuế GSP 4,2% về 0% ngay khi EVFTA có hiệu lực, tôm chân trắng đông lạnh sẽ giảm dần về 0% sau 5 năm.

Trong khi các đối thủ cạnh tranh chủ yếu gồm: Thái Lan không được hưởng Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), cũng không có FTA nên chịu mức thuế cơ bản 12%, Ấn Độ không có FTA, chịu thuế GSP 4,2%, Indonesia chịu thuế GSP 4,2% và đặc biệt, đối thủ cạnh tranh rất mạnh Ecuador chịu mức thuế cơ bản 12%.

Trong khi đó, 2 loại tôm này ta chủ động được nguyên liệu. Sản lượng tôm sú trong tháng 5 năm nay ước tính đạt 25,6 nghìn tấn, giảm 2,3% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm thẻ chân trắng ước đạt 46,6 nghìn tấn, tăng 11%.

Sở dĩ sản lượng tôm sú giảm là do dịch bệnh Covid-19 khiến nhiều nước EU phong tỏa, không xuất khẩu được nên bà con nuôi cầm chừng. Nay thời hạn EVFTA có hiệu lực đã rõ ràng, cùng với sự khống chế dịch bệnh, sản lượng sẽ tăng lên nhanh chóng.

Nhưng ngay từ bây giờ, nhiều doanh nghiệp đã và đang chuẩn bị nguồn nguyên liệu sạch, thả nuôi ở mật độ thưa đúng tiêu chuẩn, đủ điều kiện chế biến và xuất khẩu sang thị trường châu Âu.

Tập đoàn Thuỷ sản Minh Phú tự tin cho rằng, EVFTA giúp thuế tôm nguyên liệu và sản phẩm tôm được giảm mạnh từ mức 12,5% và 20% xuống còn 0% sẽ giúp cho tỷ trọng xuất khẩu của Minh Phú vào EU  trước đây 11% nâng lên khoảng 18 - 20% trong năm nay.

Mặt hàng cá tra là nhóm hàng có mức tăng trưởng âm sâu nhất trong cơ cấu thủy sản xuất khẩu. Nhưng các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu vẫn hết sức bình tĩnh, tìm mọi nguồn lực để duy trì việc làm cho người lao động và hỗ trợ người chăn nuôi tổ chức lại sản xuất, đảm bảo các điều kiện về tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc.

Đây cũng là con đường của một số ngành hàng khác như trái cây tươi, Cà phê, hạt Điều, hồ Tiêu, Cao su, gạo… 

Dù công cụ là đầu tư vào nguyên liệu đảm bảo tỷ lệ xuất xứ hay tổ chức lại sản xuất đảm bảo các điều kiện về tiêu chuẩn về chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, truy xuất nguồn gốc thì doanh nghiệp Việt đã cho thấy sự tự tin nhất định trong sử dụng các công cụ tiếp cận thị trường EVFTA.

Vĩnh Bảo