Nợ công ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng, nguyên nhân và một số giải pháp

ThS. NGUYỄN THỊ THANH HOA (Khoa Kinh tế cơ sở - Trường Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp)

TÓM TẮT:
Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, nợ công của Việt Nam đã đạt đến mức báo động và có xu hướng tiếp tục tăng. Có thể nói đây là vấn đề được chú ý nhiều nhất trong thời gian gần đây. Bài viết phân tích thực trạng, nguyên nhân và một số giải pháp cho vấn đề nợ công ở Việt Nam.
Từ Khóa: Nợ công, GDP, lạm phát, tăng trưởng kinh tế.

I. Đặt vấn đề
Vấn đề Chính phủ cũng như giới chuyên môn quan tâm là công nợ của Việt Nam được tái cơ cấu như thế nào để luôn ở ngưỡng an toàn. Cùng với đó là Việt Nam cần làm gì để có khả năng trả nợ trong bối cảnh thiếu nguồn vốn cho phát triển kinh tế giai đoạn này. Theo giới chuyên gia đánh giá, nợ công của Việt Nam đã đạt đỉnh điểm, từ trước đến nay chưa bao giờ rơi vào tình trạng này. Có nhiều người cho rằng, đó là vấn đề riêng của Chính phủ mà không biết rằng nó tác động trực tiếp đến cuộc sống của chúng ta. Để hiểu hơn về tác động từ vấn đề này, thì mỗi người cần hiểu rõ bản chất, nguyên nhân và các ảnh hưởng của nợ công đối với cuộc sống con người; từ đó đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời, hiệu quả.
Có một ví dụ sau: Nếu thu nhập của gia đình bạn là 10 triệu đồng/1 tháng và chi tiêu 1 tháng là 15 triệu đồng (chi tiêu vượt mức lương) thì cần phải vay thêm 5 triệu đồng phục vụ chi tiêu. Cứ như vậy, mỗi tháng nợ thêm 5 triệu đồng. Con số này sẽ ngày càng tăng lên, càng ngày người đi vay càng khó xoay sở các khoản vay và lãi vay. Tình trạng nợ công của Việt Nam cũng tương tự như ví dụ trên.
II. Thực trạng nợ công ở Việt Nam hiện nay
1. Nợ công của Việt Nam chiếm khoảng 65% GDP
Theo báo cáo của Bộ tài chính, nợ công của Việt Nam đạt 61% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tại thời điểm tháng 9/2016 và con số này tăng lên xấp xỉ 65% vào thời điểm 2017-2018. Theo các chuyên gia, Chính phủ hàng năm phải chi trả 14% tổng nợ Chinh phủ vay và nợ Chinh phủ bảo lãnh. Việt Nam đang loay hoay trong vay vốn để phát triển và vì sử dụng vốn chưa hiệu quả nên trở thành một trong số các nước có tỷ lê nợ công tăng nhanh nhất. Nhưng nếu không tiếp tục vay thì cũng không có vốn để phục vụ phát triển và để trả nợ. Theo dự đoán trong thời gian tới, Việt Nam cần huy động 39,5 tỷ đô la Mỹ để đầu tư phát triển đến năm 2020.
2. Nợ công tăng trưởng một cách nhanh chóng
Tốc độ tăng nợ công tăng của nợ công gấp 3 lần tốc độ tăng trưởng của GDP. Năm 2017, vay đảo nợ lên đến 95.000 tỷ đồng. Con số này cho thấy gánh nặng nợ công đang tăng cao. Cứ 3 tháng 1 lần, Việt Nam trả nợ công gồm cả gốc và lãi với số tiền khoảng 25 nghìn tỷ đồng, xấp xỉ khoảng 1 tỷ đô la Mỹ. Nếu không giải quyết nhanh chóng và hiệu quả sẽ ảnh hưởng đến tài chính quốc gia, ổn định vĩ mô. Năm 2016, nợ công đến hạn của Việt Nam là 280.000 tỷ đồng, nhưng chỉ trả được 150.000 tỷ đồng và phải vay thêm 130.000 tỷ đồng, xấp xỉ 6 tỷ đô la Mỹ để đảo nợ. Theo thông tin từ Bộ Tài chính, thu nhập trung bình của người lao động Việt Nam là 2.200 USD/người/năm. Theo quy định, con số trên đã cho thấy Việt Nam đã thoát khỏi nhóm các nước nghèo và là nước có thu nhập trung bình. Vì vậy, các khoản vay với ưu đãi về lãi suất và thời hạn sẽ không còn nữa mà chúng ta phải vay các khoản với lãi suất cao hơn và thời hạn cũng ngắn hơn. Điều này chỉ ra rằng, nếu Việt Nam vay thì cần đầu tư một cách hiệu quả đồng vốn, tạo lãi thì mới giảm được áp lực từ nợ công.
Như đã biết về điều khoản vay vốn, “lãi mẹ đẻ lãi con” là chính sách áp dụng tính lãi suất, nên mức độ lãi suất tăng lên nhanh chóng. Trên thực tế, Việt Nam đã phải bán trái phiếu chính phủ trong nước với lãi suất cao, khoảng 8 đến 9%/năm, nhưng chỉ đủ trả lãi của nợ cũ và trả được một phần của vốn vay. Chính vì vậy, nợ mới và nợ cũ tăng nhanh dẫn đến nợ công tăng nhanh.
3. Thực trạng hiện tại tác động tiêu cực và gây nhiều hệ luy cho nền kinh tế - xã hội
Nợ công đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân trong đất nước về mọi mặt: kinh tế, y tế, giáo dục, phúc lợi xã hội… Giả sử nếu tồn tại là một quốc gia không chịu ảnh hưởng của vay nợ trầm trọng, với GDP tăng trưởng thì Việt Nam có lẽ phát triển hơn nhiều khi Nhà nước chú trọng cho đầu tư chất lượng học tập, y tế, đời sống và phúc lợi xã hội...
Các hệ lụy đó là: Lạm phát tăng cao; Đồng tiền mất giá và hất nghiệp tăng cao, kinh tế kém phát triển
Khi gặp khó khăn, Nhà nước sẽ in thêm tiền để ổn định một phần chi tiêu. Điều này kéo theo lượng tiền trong lưu thông tăng, đồng tiền mất giá. Tăng thuế là việc sớm muộn do thu nhập của Nhà nước phụ thuộc phần lớn vào các khoản thu từ thuế. Điều này tác động trực tiếp đến cuộc sống người dân, khi tỷ lệ nợ công tăng, Chính phủ phát hành trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu Chính phủ và khoản tiết kiệm trong dân giảm dần. Khi khoản nợ quá lớn, Chính phủ buộc tăng thuế để trả nợ vay làm tổn thất xã hội. Điều này tạo thành 1 vòng luẩn quẩn không thoát được.
4. Nguyên nhân gây ra tình trạng nợ công tăng cao
Để dẫn đến tình trạng nợ công như hiện nay, có thể thấy một số nguyên nhân chủ yếu:
Thứ nhất: Đầu tư ồ ạt. Đường xá, cầu đường được xây dựng và mở rộng, chi phí được lấy từ ngân sách nhà nước. Mà ngân sách này là đi vay từ các tổ chức tín dụng trong nước và ngoài nước. Theo thống kê, xây dựng đường xá mất khoảng 20 triệu USD/km. Trong khi theo tính toán, đường xá sau khi được xây dựng xong và đi vào sử dụng trong 2 năm đã phải tu sửa. Tương tự, mới đây Việt Nam bỏ chi phí xây dựng tượng đài một cách phung phí với chi phí lớn. Với những chi phí bất hợp lí như vậy, tỷ lệ nợ công của Việt Nam sẽ ngày càng tăng nhanh.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ nên Nhà nước còn phải gánh thêm khoản nợ. Thực tế hiện nay, có 12 dự án đầu tư không hiệu quả và cần xử lý của Bộ Công Thương. Bộ Tài chính báo cáo có 72 dự án đầu tư khác của doanh nghiệp nhà nước không khả thi và có nhiều khả năng thua lỗ. Điều này đã làm tăng thêm áp lực về gánh nặng nợ công cho Chính phủ.
Bên cạnh đó là các dự án phát sinh tăng vốn. Ví dụ: Năm 2008, dự án đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông được triển khai với tổng vốn đầu tư là 552 triệu USD. Nhưng đến năm 2016 thì tổng số vốn điều chỉnh tăng lên 868 triệu USD (tăng lên hơn 1,5 lần so với mức vốn ban đầu. Trong số đó có bao gồm vay của Trung Quốc 669 triệu USD trả lãi cho khoản này mỗi ngày là 1,2 tỷ đồng/ngày. Và thực tế hiện nay dự án này đầu tư không hiệu quả. Dự án tiếp theo là dự án đường sắt trên cao Ga Hà Nội - Nhổn, tổng vốn đầu tư dự kiến ban đầu là 783 triệu EUR và được điều chỉnh lên 1176 triệu EUR, trong đó có nguồn vốn vay của Pháp là 653 triệu EUR. Hầu hết các dự án của Việt Nam đều chậm tiến độ, vốn chi bất hợp lý, kém hiệu quả. Đầu tư vào quản lý hệ thống công cộng hết sức trì trệ, chậm tiến độ so với các nước khác, các công trình thi công ở Việt Nam chậm tiến độ đến 3 - 4 lần, đội giá. Đầu tư công của Việt Nam chủ yếu đầu tư và cơ sở hạ tầng, tuy nhiên mọi việc gặp rất nhiều bất cập như đội vốn, năng lực nhà thầu không đảm bảo dẫn đến chậm tiến độ. Nguồn vốn chủ yếu là đi vay nhưng lại không được thực hiện một cách hiệu quả dẫn đến nợ công ngày càng tăng cao.
Thứ hai: Có hiện tượng tham nhũng, thất thoát. Lãi phải trả cho cho các khoản đi vay quá lớn, trong khi phần lớn số vốn vay lại không được sử dụng hiệu quả do nhiều lý do như tham nhũng, thất thoát, chậm tiến độ... Điều đó dẫn đến các khoản lãi ngày càng trầm trọng. Trong chi tiêu Chính phủ, chi thường xuyên chiếm 71%, chi trả nợ chiếm 24,5%, còn lại 4,5% tổng ngân sách cho đầu tư.
Bên cạnh đó, chưa có sự minh bạch trong sử dụng vốn vay. Việt Nam có rất nhiều dự án chậm tiến độ so với dự kiến. Càng kéo dài, trì trệ thì càng lỗ, trong khi đó thì gánh nặng trả lãi của các khoản vay lại ngày càng tăng. Đặt ra câu hỏi là liệu nguồn vốn đã thực sự được đầu tư đúng hướng và các nhà lãnh đạo đã thực sự đặt lợi ích quốc gia lên hàng đầu khi mà có quá nhiều dự án thua lỗ, chậm trễ, phải thay đổi nhiều nhà thầu mới có thể hoàn thành.
III. Giải pháp
Trước tình hình hiện nay, việc đi vay với lãi suất thị trường để chi tiêu công không còn là giải pháp tốt, khi mà chúng ta đã mất đi nhiều ưu đãi. Dự báo phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam đến năm 2020 sẽ vẫn phải đi vay bù đắp thiếu hụt về đầu tư. Một số biện pháp lưu ý:
Thứ nhất, nợ công phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng kinh tế, sự phát triển kinh tế là điều kiện cần để tăng thu cho ngân sách nhà nước và giảm áp lực từ nợ công. Muốn vậy cần đổi mới mô hình kinh tế, cải thiện bộ máy tổ chức hoạt động các cơ quan nhà nước, đầu tư có trọng điểm tránh đầu tư dàn trải thất thoát.
Doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả thấp hơn so với doanh nghiệp tư nhân. Doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo theo nhiều ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nhà nước thất thoát vốn. Cần giảm bớt sự phụ thuộc của các doanh nghiệp nhà nước, để các doanh nghiệp hoạt động độc lập, cạnh tranh công bằng với các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ có vậy mới cải thiện sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, nợ công ở Việt Nam phụ thuộc hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Các chuyên gia kinh tế cho rằng Chính phủ cần tìm kiếm các giải pháp quản lý hiệu quả. Cần thay đổi cách tính nợ công để thu nhận được chính xác nhất về số liệu về khoản nợ công của Chính phủ và doanh nghiệp nhà nước.
Huy động vốn trong nước thay vì vay vốn nước ngoài. Thực tế khoản tiền nhàn rỗi trong nhân dân hoàn toàn phù hợp cho việc mua trái phiếu chính phủ, nhất là trong hoàn cảnh chúng ta phải vay với lãi suất khá cao.
Cần thực hiện kỷ luật tài khóa rõ ràng, nghiêm ngặt, tránh tình trạng thâm hụt ngân sách, rà soát lại những dự án đầu tư, phòng chống tham nhũng, minh bạch về tài chính.
Phải có ưu tiên rõ ràng trong việc chi tiêu nợ công. Những ưu tiền cần đặt ra là cơ sở hạ tầng công ích, dịch vụ phục vụ đời sống an sinh xã hội. Các doanh nghiệp nhà nước cần chú trọng phát triển lợi ích, mở rộng đầu tư.
Xây dựng một cơ chế quản lý nợ công hiệu quả. Chế độ kiểm soát rất cần sự minh bạch và có trách nhiệm giải trình để có thể kiểm soát tốt nợ công của Việt Nam. Hiện tại, chất lượng đội ngũ kiểm toán nhà nước của Việt Nam còn thấp, chưa đủ khả năng phân tích đánh giá bản chất của nợ công, phân loại đánh giá những tác động của nó có thể xảy ra với nền kinh tế. Hơn nữa, giám sát chi tiêu của Chính phủ cũng cần phải thể chế hóa và bắt buộc thi hành để tránh tình trạng chi tiêu lãng phí, không đúng mục đích. Luật Ngân sách nhà nước cũng cần rà soát lại nhằm nâng cao hiệu quả của chi tiêu công. Nếu không có cơ chế quản lý nợ công hiệu quả chúng ta không thể đánh giá thấu đáo tình hình tăng trưởng kinh tế, lượng dự trữ quốc gia là bao nhiêu, cần làm gì để giảm áp lực của nợ công đối với nền kinh tế.
Thứ ba, vừa vay để đầu tư, vừa vay để đảo nợ làm cho nợ công tăng lên nhanh chóng. Cần chỉ định một “đầu mối” xử lý nợ công với quyền hạn trong việc huy động, phân bổ, chịu trách nhiệm có thể xem là phù hợp trong thời điểm hiện nay.
Thứ tư, minh bạch trong quản lý. Để góp phần giảm nợ công việc quản lý sử dụng vốn được sử dụng một cách nghiêm túc có hiệu quả
Thứ năm, thu hút nguồn thu ngoại tệ. Thu hút nguồn thu ngoại tệ bằng cách phát triển lĩnh vực xuất khẩu như nông sản, hải sản, da giày, khoáng sản. Phát triển du lịch, thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án kinh tế. Thêm nữa là lực lượng lao động của nước ta đang rất dồi dào, đây là điều kiện cho đất nước phát triển tất cả các ngành thế mạnh, cũng như là sức hút cho việc đầu tư từ các nước.
Thứ sáu, xử lý nghiêm minh cán bộ có dấu hiệu sai phạm trong các dự án kinh tế gây thất thoát lớn cho nhà nước. Rà soát lại tính hiệu quả của các dự án đang trong quá trình thực hiện hoặc sắp được triển khai trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Đức Thành (2011), “Nợ công ở Việt Nam, một số phân tích và thảo luận”, Hội thảo về kinh tế Việt Nam năm 2011, triển vọng năm 2012 và các giải pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2011-2015.
2. Báo cáo nghiên cứu RS-OS-NXB Tri thức, “Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương lai”.
3. Bộ Tài chính (2017). Bản tin nợ công.
4. Bộ Tài chính (2017). Một số kinh nghiệm quốc tế về quản lý nợ công. Hà Nội.
5. Bộ Tài chính (2009). Đề cương giới thiệu Luật quản lý nợ công.

CURRENT PUBLIC DEBT IN VIETNAM

MA. NGUYEN THI THANH HOA

Faculty of Economics - University of Economic and Technical Industries

ABSTRACT:

In the context of the current economy, Vietnam's public debt has reached a dangerous level and contionues to rise. This issue has been paid the most attention in recent times. The paper analyzes the current situation, causes and solutions to the public debt problem in Vietnam.

Keywords: Public debt, GDP, Inflation, Economic growth.