Phát triển hạ tầng giao thông để đẩy mạnh phát triển kinh tế Việt Nam

NGUYỄN VĂN NGHI (Giảng viên Trường Đại học Công đoàn)

TÓM TẮT:

Để phát triển bất cứ ngành kinh tế nào thì việc phát triển hạ tầng giao thông nói chung đóng một vai trò hết sức quan trọng. Bài viết này sẽ phân tích về việc cần thiết phải phát triển hạ tầng giao thông để đẩy mạnh phát triển kinh tế Việt Nam.

Từ khóa: hạ tầng giao thông, phát triển kinh tế.

1. Đặt vấn đề

Ngày nay, trước xu thế hội nhập và giao lưu quốc tế, một kết cấu hạ tầng giao thông tốt đóng vai trò đặc biệt quan trọng giúp cho việc đi lại và giao lưu hàng hóa giữa các nước thuận tiện. Việc xây dựng hệ thống đường liên quốc gia, liên khu vực sẽ tạo ra hành lang vận tải giữa các nước, các khu vực và châu lục, góp phần mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa với các nước.

Với bất cứ quốc gia nào, hệ thống giao thông nói chung cũng có vai trò kết nối sản xuất với tiêu thụ, giữa vùng này với vùng khác, giữa quốc gia này với quốc gia khác và đáp ứng nhu cầu đi lại của con người, đảm bảo được mối liên hệ kinh tế, phục vụ sản xuất, góp phần nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy giao lưu kinh tế giữa các vùng, các quốc gia, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của vùng, của địa phương.

Nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông đối với phát triển kinh tế, trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và cụ thể hóa bằng các chiến lược và Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Cụ thể đó là Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 và Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/1/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, trong đó hạ tầng giao thông là 1 trong 4 nhóm lĩnh vực trọng tâm với yêu cầu: đảm bảo kết nối các trung tâm kinh tế lớn với nhau và với các đầu mối giao thông cửa ngõ bằng hệ thống giao thông đường bộ.

2. Sự cần thiết đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông Việt Nam

Kết cấu hạ tầng nói chung và kết cấu hạ tầng giao thông nói riêng là nền tảng cơ sở vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do đó, trong những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm ưu tiên tăng vốn đầu tư từ nguồn ngân sách để xây dựng một kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ, hiện đại.

Trong những năm qua, nhiều hình thức huy động vốn đã được Chính phủ chấp thuận và ủng hộ để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, điển hình là những công trình đầu tiên đầu tư bằng hình thức BOT, BT, với tổng mức đầu tư vài chục tỷ đồng. Bước vào thời kỳ đổi mới nền kinh tế, đặc biệt là trong hơn 10 năm qua, sự phát triển nhanh và ngày càng nâng cao về chất lượng kết cấu hạ tầng giao thông đã thỏa mãn tốt hơn nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa của xã hội. Giao thông vận tải chính là sự kết hợp hữu cơ của kết cấu hạ tầng, phương tiện và tổ chức dịch vụ vận tải. Trong đó, kết cấu hạ tầng đóng vai trò quan trọng và cần phải đi trước một bước. Chính vì vậy, chủ trương  đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đã được nêu ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, với mục tiêu đến năm 2020 phải đưa nước ta trở thành nước có nền kinh tế phát triển, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; và từ giai đoạn 2021 - 2030 đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông tiếp tục là một trong những đột phá chiến lược quan trọng cần ưu tiên đầu tư phát triển, đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững.

Việc xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông có tầm quan trọng được thể hiện ở các mặt sau đây:

Thứ nhất, nếu chúng ta có một hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ và hiện đại sẽ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các vùng lãnh thổ, giảm sự chênh lệnh về mức sống và dân trí giữa các khu vực dân cư.

Việt Nam có 7 vùng kinh tế lớn, đó là các Vùng: Đông Bắc, Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Thực tế cho thấy, vùng nào có cơ sở hạ tầng giao thông được đầu tư phát triển thì có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội cao; còn những vùng chưa có sự quan tâm về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông thì tốc độ phát triển chậm hơn, tạo ra sự mất cân đối với các vùng khác. Việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông sẽ giúp cho nền kinh tế tối ưu hóa được các nguồn lực, tận dụng được lợi thế so sánh giữa các vùng, miền trong sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ. Từ đó, nền sản xuất hàng hóa sẽ có cơ hội phát triển thông qua hệ thống trao đổi và phân phối.

Thứ hai, trong chiến lược phát triển kinh tế của từng vùng luôn có chiến lược phát triển mạng lưới giao thông vận tải. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ còn là đòi hỏi cấp bách trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ của những ngành công nghiệp phương tiện vận tải như công nghiệp ô tô, xe máy. Xây dựng và nâng cao chất lượng đường bộ còn để theo kịp tốc độ phát triển của phương tiện cơ giới đường bộ cũng như nhu cầu lưu thông ngày càng cao như hiện nay.

Thứ ba, không chỉ có những ngành công nghiệp sản xuất tạo được sự phát triển khi kết cấu hạ tầng giao thông phát triển mà ngay cả những ngành công nghiệp không khói như ngành Du lịch cũng sẽ phát triển khi Việt Nam có được một hệ thống giao thông hoàn thiện, thuận tiện và liên kết được các khu vực, vùng miền trong cả nước.

Thứ tư, xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông còn có ý nghĩa rất quan trọng góp phần cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng chính nguồn vốn đó để xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, tạo ra điều kiện cho những ngành sản xuất vật chất hoạt động hiệu quả hơn, tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm. Mạng đường bộ ASEAN hiện đang được tiến hành xây dựng trong giai đoạn hai là một ví dụ cụ thể về mối quan hệ giữa hội nhập và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông.

Thứ năm, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông còn là giải pháp trực tiếp và gián tiếp tới những vấn đề xã hội cấp bách, đó là  đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải đang tăng nhanh trong thời gian vừa qua. Nhu cầu giao thông đường bộ bao gồm cả nhu cầu vận chuyển hàng hóa và nhu cầu vận chuyển hành khách. Theo thống kê, trong vòng 10 năm qua, hoạt động vận tải bình quân tăng 8,6%/năm về tấn hàng hóa, 9,9% về T.km, 8,0% về hành khách và
9,6% về HK.Km. Tốc độ tăng trưởng trên khá cao so với chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế chung 7,5% mà Đảng và Chính phủ đề ra. Chất lượng dịch vụ vận tải chỉ có thể được nâng cao nếuchúng ta có một hệ thống kết cấu hạ tầng đường bộ đạt tiêu chuẩn, hiện đại và đồng bộ.

3. Thực trạng phát triển hạ tầng giao thông của Việt Nam và phương hướng phát triển đến năm 2030

Nhờ tập trung huy động mọi nguồn lực cho phát triển hạ tầng giao thông theo sự chỉ đạo của Chính phủ, nên hạ tầng giao thông của Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ theo hướng đồng bộ, hiện đại, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân, rút ngắn khoảng cách giữa các vùng miền.

Các công trình giao thông được quy hoạch và đầu tư theo hướng đồng bộ, hiện đại như: đường bộ cao tốc, sân bay, cảng biển quốc tế đạt tiêu chuẩn khu vực và thế giới. Trong đó phải kể đến đã quy hoạch mạng lưới đường bộ cao tốc quốc gia kết nối các trung tâm kinh tế trọng điểm Bắc - Nam; các cửa khẩu, sân bay, cảng biển quốc tế và các tuyến đường vành đai đô thị có nhu cầu vận tải lớn với tổng chiều dài hơn 6.400km; tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam và hệ thống đường sắt đô thị tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; các cảng biển cửa ngõ quốc tế (Lạch Huyện, Vân Phong và Cái Mép - Thị Vải); mạng đường bay theo mô hình nan quạt với tần suất khai thác cao tại 2 đầu Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Cụ thể từ năm 2012-2020, hạ tầng giao thông đường bộ đã được đầu tư xây dựng như sau:

- Về đường bộ: đã đưa vào khai thác 1.041km đường cao tốc, đang đầu tư xây dựng hơn 160km, tiếp tục triển khai các thủ tục để đầu tư xây dựng thêm 654km đường cao tốc Bắc - Nam phía Đông (theo Nghị quyết số 52/2017/QH14, ngày 22/11/2017 của Quốc hội); 40km đường cao tốc đoạn thành phố Lạng Sơn - cửa khẩu Hữu Nghị (Đồng Đăng); 92km đường cao tốc Vân Đồn - Móng Cái.

- Về hàng không: đã có những bước phát triển đột phá về cả quy mô và chất lượng dịch vụ, đáp ứng kịp thời sự bùng nổ của nhu cầu vận tải hàng không trong giai đoạn vừa qua, với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 16% - 18%/năm. Theo đó, đã nâng cấp các cảng hàng không Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng và xây dựng mới các cảng hàng không Phú Quốc, Vân Đồn, nâng tổng công suất mạng cảng hàng không đạt khoảng 90 triệu lượt hành khách/năm, tăng 2,5 lần so với năm 2011, góp phần phát triển du lịch, bảo đảm quốc phòng an ninhvà khẳng định chủ quyền quốc gia. 

- Về đường sắt: đã nỗ lực nâng cao an toàn, rút ngắn thời gian chạy tàu và cải thiện dịch vụ, nâng cao chất lượng phương tiện vận tải hành khách.

- Về đường thủy: đã đủ khả năng đảm nhận khoảng từ 80-90% khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của đất nước. Hệ thống cảng biển được đầu tư đồng bộ với năng lực thông qua khoảng 570 triệu tấn/năm, gấp 2 - 3 lần so với năm 2011. Theo đó, đã hoàn thành đầu tư cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép - Thị Vải, Lạch Huyện có khả năng tiếp nhận được tàu tải trọng lớn từ 130.000 tấn đến 200.000 tấn (DWT) đi thẳng tới bờ Tây nước Mỹ, Ca-na-đa và châu Âu; các cảng hành khách tại Phú Quốc, Hạ Long có khả năng tiếp nhận tàu chở khách lớn nhất thế giới; thực hiện nâng cấp, cải tạo các cảng đầu mối khu vực Nghi Sơn, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Khánh Hòa, Cần Thơ, đưa tổng công suất các cảng từ 420 triệu tấn (năm 2011) lên khoảng 580 triệu tấn mỗi năm. Các tuyến đường thủy chính đã được đầu tư nâng cấp, trong đó, vùng đồng bằng sông Cửu Long có 1.082 km đường thủy, vùng đồng bằng Bắc Bộ có 462km đường thủy được đầu tư cải tạo, nâng cao năng lực vận tải.

Hiện nay, Bộ Giao thông Vận tải đang phối hợp với thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh tập trung triển khai 5 dự án đường sắt đô thị; đã triển khai các dự án cải tạo cầu yếu, thông tin tín hiệu, gia cố sửa chữa các hầm đường sắt và các hạng mục kết cấu hạ tầng thiết yếu khác, qua đó nâng cao mức độ an toàn, rút ngắn thời gian chạy tàu trên trục Bắc - Nam; đang tập trung triển khai các dự án đường sắt quan trọng, cấp bách nhằm nâng cao khả năng khai thác, an toàn chạy tàu trên tuyến đường sắt Bắc – Nam,... Giao thông đô thị từng bước được cải tạo, nâng cấp và mở rộng, đặc biệt tại các đô thị lớn, góp phần hạn chế tình trạng ùn tắc hành khách, hàng hóa. Các trục giao thông hướng tâm, các đường vành đai, các nút giao lập thể được đầu tư xây dựng tại các giao lộ lớn, tuyến tránh đô thị, đặc biệt là ưu tiên các đường vành đai Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, các công trình trọng điểm trong từng khu vực (như xây dựng các cây cầu lớn: Nhật Tân, Vĩnh Thịnh, Cao Lãnh, Vàm Cống, Năm Căn, Cổ Chiên, Mỹ Lợi, Cái Tắt, An Hữu, Rạch Sỏi,...); phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tập trung triển khai các dự án đường sắt đô thị. Chất lượng phục vụ, dịch vụ vận tải cũng không ngừng được đổi mới, nâng cao, bảo đảm phục vụ tốt hơn nhu cầu đi lại của nhân dân; thúc đẩy phát triển sản xuất - kinh doanh; góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, qua đó nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế.

4. Đột phá chiến lược đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông giai đoạn 2021-2030

Mặc dù kết quả hạ tầng giao thông của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tuy nhiên, vấn đề hạ tầng giao thông vẫn là “điểm nghẽn” đối với nhu cầu phát triển đất nước như đường bộ cao tốc mới bước đầu hình thành, chưa hoàn thành mục tiêu đặt ra; hệ thống đường sắt lạc hậu, chưa đầu tư được đường sắt tốc độ cao…; cảng biển chưa khai thác hết công suất; một số cảng hàng không đã quá tải… cho nên chưa hình thành được hệ thống giao thông đồng bộ, hiện đại.

Giai đoạn 2021 - 2030, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông tiếp tục là một trong những đột phá chiến lược quan trọng cần ưu tiên đầu tư phát triển, đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững. Trong điều kiện nguồn lực còn khó khăn, cần lựa chọn một số công trình trọng điểm có tính đột phá để thực hiện đầu tư, kiến tạo động lực phát triển quốc gia. Do đó, cần phải tăng mức đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông bằng ngân sách nhà nước; huy động tối đa mọi nguồn lực, có cơ chế chính sách thu hút vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế; khai thác hiệu quả nguồn lực từ tài sản công, đất đai, để tạo vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng. Bên cạnh đó, nghiên cứu hoàn thiện các cơ chế, chính sách về thuế, phí, hỗ trợ tài chính theo hướng tạo thuận lợi cho phát triển vận tải khách công cộng, vận tải đa phương thức,… Phấn đấu đến năm 2030, trên 80% các tỉnh/thành phố trong cả nước đều có đường bộ cao tốc đi qua hoặc kết nối tới trung tâm hành chính và có khoảng 3.500km - 4.000km đường bộ cao tốc. Trong đó, ưu tiên đầu tư đưa vào khai thác thông tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau, các tuyến đường bộ cao tốc trên các hành lang vận tải chủ yếu, các tuyến đường bộ cao tốc cửa ngõ kết nối với thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị lớn, các tuyến cao tốc vành đai đô thị; hệ thống đường bộ Việt Nam đồng bộ về tiêu chuẩn kỹ thuật, kết nối thuận lợi với hệ thống đường bộ ASEAN, Tiểu vùng Mê Công mở rộng và xuyên Á.

Bên cạnh đó, tập trung phát triển giao thông đô thị theo quan điểm hướng tới văn minh, hiện đại. Từng bước xây dựng các tuyến vận tải hành khách khối lượng lớn tại các đô thị loại I. Tiếp tục đầu tư phát triển mạng lưới đường sắt đô thị tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh để bảo đảm tỷ lệ vận tải hành khách công cộng đạt 40% - 45%. Triển khai xây dựng một số đoạn trên tuyến đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, trong đó, ưu tiên đoạn Hà Nội - Vinh, thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang; nhanh chóng phát triển mạng đường sắt đô thị làm nòng cốt phát triển vận tải hành khách công cộng tại các đô thị lớn: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng giao thông với phương tiện vận tải, thiết bị quản lý, điều hành hiện đại và gắn kết với các trung tâm phân phối hàng hóa, cảng biển lớn, cảng cạn ICD.

Hoàn thiện mạng lưới cảng hàng không trong cả nước với quy mô hiện đại; hoàn thành mở rộng các cảng hàng không quốc tế Nội Bài, Tân Sơn Nhất theo quy hoạch; đầu tư cảng hàng không quốc tế Long Thành (giai đoạn 1) có vai trò và quy mô ngang tầm với các cảng hàng không quốc tế lớn trong khu vực. Đầu tư hệ thống quản lý hoạt động bay hiện đại, bảo đảm tầm phủ của các trang thiết bị liên lạc, dẫn đường và giám sát theo yêu cầu nhiệm vụ trong toàn bộ vùng FIR của Việt Nam.

Nghiên cứu đầu tư các bến còn lại của cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện, huy động vốn đầu tư cảng quốc tế Vân Phong, tiếp tục nâng cao hiệu quả khai thác khu bến cảng quốc tế Cái Mép - Thị Vải; tiếp tục đầu tư luồng Thị Vải để bảo đảm cho tàu 200.000T hành thủy 24/24h; dành quỹ đất thích hợp phía sau cảng để xây dựng trung tâm phân phối, bốc xếp hàng hóa, dịch vụ hậu cảng, kết nối thuận tiện với mạng lưới giao thông quốc gia, từng bước tạo thành mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông lô-gi-stíc hiện đại, hiệu quả ngang tầm các nước trong khu vực. Tiếp tục đưa vào cấp kỹ thuật, bảo đảm chạy tàu 24/24h các tuyến đường thủy nội địa chủ yếu. Huy động vốn đầu tư các tuyến đường thủy có nhu cầu vận tải lớn; dự án phát triển các hành lang đường thủy và lôgistíc khu vực phía Nam; cơ giới hóa bốc xếp các cảng, bến thủy nội địa hiện đại, có hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2010 - 2020, ngày 12/3/2012.
  2. Ban Chấp hành Trung ương (2012), Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/1/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, nhằm đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
  3. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 355/QĐ-TTg ngày 25/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt điều chỉnh Chiến lược phát triển giao thông vận tải Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

Developing transport infrastructure to promote the economic

growth in Vietnam

Nguyen Van Nghi

Lecturer, Trade Union University

ABSTRACT:

In general, the development of transport infrastructure plays an important role in the growth of any economic sector. This paper analyzes the transport infrastructure needs for boosting the economic growth in Vietnam.

Keywords: transport infrastructure, economic development.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 8, tháng 4 năm 2021]