Tái cơ cấu, nâng cao năng lực cạnh tranh của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước

Hiện nay, chủ đề tái cơ cấu nền kinh tế nói chung, tái cơ cấu các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước nói riêng đang trở thành vấn đề thời sự, thu hút được sự quan tâm lớn của dư luận, của các nhà

Theo số liệu của Bộ Tài chính về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh của 81 trong tổng số 91 tập đoàn, tổng công ty nhưng không bao gồm Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin), thì tổng số nợ phải trả của các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước đến hết năm 2009 là 813.435 tỉ đồng, gấp 1,5 lần vốn chủ sở hữu và bằng 58% tổng tài sản. Tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu này là thấp hơn so với quy định (3 lần). 

Trong vòng bốn năm, tính từ đầu 2006 đến tháng 6-2010, vốn chủ sở hữu của các tập đoàn và tổng công ty nhà nước tăng 140%, tài sản tăng 125%, nhưng lợi nhuận chỉ tăng 105%. Như vậy hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đang giảm đi rõ rệt. 

Số lượng tập đoàn và tổng công ty nhà nước tuy khá nhiều, nhưng hầu hết nguồn lực vốn và tài sản của Nhà nước trong khối này lại tập trung vào một nhóm nhỏ gồm 10 tập đoàn và 11 tổng công ty đặc biệt. Cụ thể, nhóm này chiếm tới 87,1% tổng vốn chủ sở hữu và 85,8% tổng số tài sản; chi phối tới 84,7% tổng lợi nhuận, lớn nhất là lĩnh vực dầu khí, hàng không, ngân hàng... 

Vấn đề nổi lên hiện nay là một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước đang ở trong tình trạng thua lỗ lớn, nợ ngân hàng ở mức độ cao, nợ quá hạn đang phát sinh ngày càng lớn. Tổng công ty thua lỗ lớn phải kể đến là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tổng công ty Hàng hải Việt Nam… Tổng công ty xăng dầu (Petrolimex) thì thua lỗ lớn trong mảng kinh doanh xăng dầu. Nợ ngân hàng lớn nhất và đang phát sinh nợ xấu nhiều nhất là Vinashin. 

Theo số liệu do Ngân hàng nhà nước (NHNN) đưa ra tại phiên điều trần của Ủy ban Kinh tế Quốc hội ngày 25-12-2010 thì số nợ gốc của Vinashin tại các NHTM là 18.000 tỷ đồng. Số nợ này có thể đã trừ khoản nợ của một số công ty đã chuyển giao cho Tập đoàn Dầu khí và Tổng công ty Hàng hải Việt Nam! Đồng thời chưa tính số nợ ngân hàng nước ngoài và nợ nước ngoài qua phát hành trái phiếu ngoại tệ, ước tính khoảng 26.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó còn số nợ của Vinashin tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam ước tính lên tới khoảng 5.000 tỷ đồng nợ gốc và khoảng 3.000 tỷ đồng nợ lãi. 

Riêng EVN, lỗ sản xuất kinh doanh điện năm 2010 là hơn 10.000 tỷ đồng và số nợ chưa trả được cho ngành Dầu khí, Than là trên 11.000 tỷ đồng. Bộ Tài chính cũng đã có chỉ đạo hạch toán lỗ vào giá điện chứ không còn có thể hạch toán vào đâu được. Bởi nguyên tắc, EVN chỉ thực hiện sản xuất kinh doanh điện. Vì vậy, khoản lỗ do giá bán thấp hơn giá thành của Tập đoàn này đương nhiên sẽ được hạch toán vào giá điện trong những đợt điều chỉnh thời gian tới. Đây cũng là lĩnh vực thu hút sự quan tâm lớn của dư luận xã hội, bởi vì giá điện ảnh hưởng đến mọi mặt của nền kinh tế quốc dân, đến an sinh xã hội, đến lạm phát và tình trạng thua lỗ lớn trong đầu tư ngoài ngành của Tập đoàn này. 

Trong thực tiễn hiện nay đang xuất hiện nhiều tồn tại trong công tác quản lý cũng như hoạt động của nhóm các DN này và gợi mở suy nghĩ về hướng giải quyết được nêu dưới đây. 

Một là, cần phải tăng cường và nâng cao hiệu quả, nâng cao trách nhiệm của thanh tra chuyên ngành trực thuộc các bộ chuyên ngành, cũng như thanh tra tài chính. Đồng thời, cần làm rõ chức năng quản lý nhà nước của bộ chuyên ngành với chức năng quản lý vốn và tài sản của DNNN thuộc Bộ Tài chính. Cần phải yêu cầu các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước chủ động đưa ra phương án cơ cấu lại chính bản thân mình, các bộ chủ quản, bộ chuyên ngành xây dựng và triển khai đề án tái cơ cấu các tập đoàn, tổng công ty thuộc lĩnh vực mình phụ trách, quản lý nhà nước. 

Hai là, cơ cấu lại quản trị điều hành các tập đoàn, tổng công ty, cần nâng cao năng lực lãnh đạo điều hành, thay đổi lãnh đạo, cần thiết thuê chuyên gia nước ngoài trong một số lĩnh vực. 

Ba là, nâng cao hiệu quả đầu tư vốn của Nhà nước, hoàn thành dứt điểm, đúng tiến độ các dự án đầu tư, làm rõ trách nhiệm của các cá nhân và tập thể để dự án kéo dài, lãng phí và chậm đưa khai thác, sử dụng. 

Bốn là, cần có cơ chế kiểm soát chặt chẽ hiệu quả sử dụng vốn tại DN, nâng cao trách nhiệm trong việc huy động vốn và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, chấm dứt việc thành lập nhiều công ty con, hạn chế tới mức thấp nhất việc thành lập các công ty liên kết, chỉ thành lập các công ty dạng này khi thực hiện các dự án, hợp đồng thuộc nhiệm vụ chức năng chính hay có liên quan trực tiếp đến chức năng chính. 

Năm là, tình trạng đầu tư một khối lượng vốn ra ngoài ngành nghề kinh doanh chính xẩy ra rất phổ biến và ở mức độ lớn, song kém hiệu quả. 


Theo số liệu công bố của Bộ Tài chính thì đến hết năm 2010, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đã đầu tư ra ngoài ngành ở 5 lĩnh vực với tổng vốn 21.814 tỉ đồng. Cụ thể, đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán 3.576 tỉ đồng; lĩnh vực bảo hiểm 2.236 tỉ đồng; bất động sản 5.379 tỉ đồng; các quỹ đầu tư 495 tỉ đồng; lĩnh vực ngân hàng 10.128 tỉ đồng. Như vậy, trong tất cả các lĩnh vực, số vốn đầu tư ra ngoài ngành đều tăng khá so với năm 2009 và nhiều lĩnh vực có mức độ rủi ro cao. 

Theo kế hoạch của Chính phủ, đến 31/12/2015 sẽ hoàn thành việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành của tác tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Nhưng kết thúc năm 2015, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước có thu hồi đủ gốc số vốn nói trên hay không là điều không thể dự đoán trước được trong bối cảnh nhiều công ty chứng khoán, công ty bất động sản đang thua lỗ, các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) cũng phải thực hiện cơ cấu lại… Bởi vậy, cần yêu cầu các đơn vị này có lộ trình rõ ràng, chặt chẽ, thực hiện nghiêm và đúng kế hoạch việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành. Song, việc thoái vốn tại các NHTMCP thì không đơn giản vì bản thân các NHTM cũng đang chuẩn bị thực hiện đề án tái cấu trúc, trong bối cảnh giá cổ phiếu nhóm ngành ngân hàng ở mức độ thấp, nhiều mã cổ phiếu giảm xuống dưới mệnh giá, nợ quá hạn gia tăng thì việc thoái vốn lại càng hết sức nan giải, các NHTMCP vẫn tiếp tục phải thực hiện chiến lược tăng vốn nói riêng và chiến lược kinh doanh nói chung. Nếu thoái số vốn gần 10.000 tỷ đồng thì ai sẽ thay thế vào đó, nguồn tiền ở đâu. Điều này có thể trông chờ vào nhà đầu tư nước ngoài. Song, vấn đề này liên quan đến việc lựa chọn NHTMCP và quyết định của nhà đầu tư nước ngoài, cũng như tỷ lệ sở hữu không quá 15-20% của một nhà đầu tư nước ngoài trong một NHTMCP. 

Sáu là, cần phải hoàn thiện cơ chế quản lý, điều hành giá xăng dầu và Quỹ bình ổn giá. Cần phải tiến hành đánh giá, sơ kết 2 năm thực hiện Nghị định 84/2009/NĐ-CP ngày 15/10/2009 về kinh doanh xăng dầu và cơ chế trích lập, quản lý Quỹ bình ổn giá xăng dầu, tập trung vào nội dung cơ bản là xem xét sửa đổi chu kỳ tính giá cơ sở 10 ngày phù hợp với tần suất điều chỉnh giá (thay cho 30 ngày như hiện nay); nghiên cứu đưa lợi nhuận ra ngoài giá cơ sở để rạch ròi lãi (lỗ) của các DN kinh doanh xăng dầu; nghiên cứu quy định rõ hơn về chi phí kinh doanh xăng dầu, lợi nhuận định mức phù hợp với từng loại hình kinh doanh; bổ sung các quy định về kiểm tra, kiểm toán, công bố, minh bạch thông tin và chế tài xử lý vi phạm. Bên cạnh đó, cần xem xét loại tỷ lệ hoa hồng của Petrolimex chi cho các đại lý bán lẻ xăng dầu. 

Đối với Quỹ bình ổn giá xăng dầu, vẫn duy trì do sự cần thiết và nghiên cứu để tập trung về Nhà nước quản lý, cho phép DN đầu mối được chủ động sử dụng theo đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước, sẽ hậu kiểm và thực hiện quyết toán vào cuối năm. Về nguyên tắc tín dụng, nếu để các DN kinh doanh xăng dầu thua lỗ thì NHTM không thể cho vay vốn mới, trong khi đó đây là mặt hàng chiến lược, ngân hàng không thể không cho vay và không ưu tiên đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu xăng dầu!. 

Bảy là, có phương án tổng thể về giá điện và giải quyết dứt điểm tình trạng thua lỗ của EVN, cần thiết phải làm rõ trách nhiệm cá nhân trong việc đầu tư ngoài ngành gây ra tình trạng thua lỗ, mất vốn của EVN. Làm lành mạnh tình hình tài chính của EVN, tạo điều kiện cho các NHTM tiếp tục đầu tư vốn cho các dự án khả thi của ngành Điện, cũng như đảm bảo quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế trong việc tài trợ vốn cho các dự án của ngành Điện.

Tám là, cần có biện pháp giảm lãi suất cho vay trong nền kinh tế, ổn định tỷ giá. Bởi vì hai yếu tố này có liên quan chặt chẽ rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước nói riêng, các DN nói chung. Chính sách cần phải được linh hoạt, cần phải xem mức độ tác động của công cụ lãi suất trong kiềm chế lạm phát, cũng như tác động hai chiều trong điều chỉnh tỷ giá. Nói cách khác, chính sách tài chính – tiền tệ có liên quan chặt chẽ đến năng lực cạnh tranh của các DN trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.