Thực trạng phát triển ngành chế biến nông sản tại khu vực Bắc Trung bộ

PGS.TS. NGUYỄN THÀNH HIẾU (Khoa Quản trị Kinh doanh - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) và ThS. NCS. NGUYỄN HỮU SÁNG (Huyện ủy Anh Sơn, Nghệ An)

TÓM TẮT:

Mặc dù có những bước phát triển mạnh mẽ trong những năm qua, tuy nhiên, ngành chế biến nông sản tại các tỉnh Bắc miền Trung vẫn còn gặp nhiều khó khăn, như công nghệ chế biến còn lạc hậu, tính liên kết ngang và liên kết dọc còn yếu đang trở thành lực cản tăng trưởng. Bài viết tập trung phân tích thực trạng phát triển và trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy ngành chế biến nông sản tại các tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung bộ trong giai đoạn tiếp theo.

Từ khóa: chế biến nông sản, khu vực Bắc Trung bộ, công nghệ chế biến.

1. Đặt vấn đề

Vùng Bắc Trung bộ có diện tích khoảng 5,15 triệu ha (10,5% tổng diện tích cả nước), gồm 6 tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế. Khu vực là cầu nối giữa các vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc với miền Trung, miền Nam, .

Trong những năm qua, công nghiệp chế biến nông sản của khu vực Bắc Trung bộ đã có những bước phát triển đáng kể, tạo chuyển biến tích cực trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất, hiệu quả hoạt động của ngành và nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người dân nông thôn. Ngoài ra, mặt hàng này cũng đóng góp một phần không nhỏ cho giá trị xuất khẩu của vùng. Tuy nhiên, công nghiệp chế biến nông sản của khu vực này nhìn chung còn gặp nhiều khó khăn về trình độ công nghệ và năng lực chế biến, cơ giới hóa, tự động hóa còn hạn chế, năng suất thấp, giá thành sản xuất và tổn thất sau thu hoạch cao. Khả năng chế biến đối với một số ngành hàng còn yếu, thiếu cơ sở và công suất chế biến, chưa đáp ứng được nhu cầu, nhất là cao điểm của mùa vụ. Mức độ liên kết giữa các thành viên trong chuỗi cung ứng nông sản trong vùng còn thấp, dẫn đến tình trạng nguồn nguyên liệu không ổn định. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết các vấn đề trên là cần thiết, nhằm thúc đẩy ngành chế biến nông sản phát triển, trở thành ngành mũi nhọn trong phát triển kinh tế - xã hội ở các tỉnh khu vực Bắc Trung bộ.

2. Thực trạng phát triển ngành chế biến nông sản của Việt Nam và các tỉnh Bắc Trung bộ

2.1. Thực trạng phát triển ngành chế biến nông sản của Việt Nam

Trong 10 năm qua (2010-2020), công nghiệp chế biến nông sản nước ta đã có bước phát triển rõ nét, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng đạt khoảng 5-7%/năm. Hiện có trên 7.500 doanh nghiệp chế biến quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu, tổng công suất đạt khoảng 120 triệu tấn nguyên liệu/năm. Bên cạnh đó là các cơ sở chế biến vừa và nhỏ, hộ gia đình. Nhiều ngành hàng đã hình thành được nền tảng công nghiệp chế biến, như rau quả có trên 150 cơ sở với tổng công suất thiết kế trên 1 triệu tấn sản phẩm/năm, cùng với hàng ngàn cơ sở sơ chế/chế biến quy mô nhỏ,...

Đối với lúa gạo, trừ một phần được sơ chế, chế biến nhỏ lẻ, phân tán, phục vụ tiêu dùng trong dân, thì đa phần (trên 60%) sản lượng được chế biến tại gần 600 cơ sở xay xát công nghiệp. Hầu như toàn bộ sản lượng mía (khoảng 21 triệu tấn, trừ lượng nhỏ mía thực phẩm và mía chế biến trong các lò mật thủ công) đều được chế biến tại hơn 40 nhà máy đường công nghiệp, hàng năm sản xuất trên 1,5 triệu tấn đường. Lĩnh vực cà phê có 239 doanh nghiệp chế biến công nghiệp, hàng năm thu mua hầu hết sản lượng khoảng 2 triệu tấn/năm của toàn bộ gần 700 nghìn ha cà phê.

2.2. Thực trạng phát triển ngành công nghiệp chế biến của các tỉnh Bắc Trung bộ

Thời gian qua, công nghiệp chế biến nông sản tại các tỉnh Bắc Trung bộ đã đạt được những kết quả đáng kể, đem lại nhiều lợi ích trên cả phương diện kinh tế và xã hội.

Thứ nhất, số lượng doanh nghiệp chế biến nông sản tăng trưởng nhanh, tính tới thời điểm cuối năm 2019, số lượng đang hoạt động kinh doanh là 348 doanh nghiệp, so với năm 2017 tăng gấp 2 lần; tăng 1,4 lần so với năm 2018, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2017 - 2019 khoảng 18,4%/ năm. Nếu phân theo hình thức sở hữu thì trong số đó có 19 doanh nghiệp nhà nước; 318 doanh nghiệp tư nhân; 11 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (Bảng 1). Số liệu cho thấy số doanh nghiệp tư nhân tăng cao, trong khi doanh nghiệp nhà nước có số lượng giảm xuống. Nguyên nhân là do sự chuyển đổi mạnh mẽ quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước cũng như sự tăng trưởng không ngừng của các doanh nghiệp tư nhân, của các doanh nghiệp start up và mới thành lập. Những chính sách đối ngoại của Việt Nam với các quốc gia trên thế giới cũng đã giúp thu hút một lượng lớn vốn đầu tư về nông nghiệp và chế biến nông sản trong khu vực. Số lượng cơ sở sản xuất cá thể trong vùng ở giai đoạn này bình quân mỗi năm tăng lên hàng nghìn cơ sở.

Bảng 1: Doanh nghiệp chế biến nông sản các tỉnh vùng Bắc Trung b

giai đoạn 2017 - 2019 phân theo hình thức sở hữu

doanh_nghiep_che_bien_nong_san_cac_tinh_vung_bac_trung_bo

 Nguồn: Tổng cục Thống kê

Trong đó, Quảng Bình có tốc độ tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2017 -2019 cao nhất, với tỷ lệ 52,8%/năm; Ngược lại tỉnh Thừa Thiên - Huế phát triển thấp nhất, chỉ đạt 7,9/năm. Các tỉnh còn lại như Thanh Hóa là 22,9%/năm, Quảng Trị 22,3%/năm, Nghệ An và Hà Tĩnh xấp xỉ 10%/năm.

Bảng 2: Số lượng doanh nghiệp chế biến nông sản các tỉnh

vùng Bắc Trung bộ giai đoạn 2017 - 2019

so_luong_doanh_nghiep_che_bien_nong_san_cac_tinh_vung_bac_trung_bo

 Nguồn: Tổng cục Thống kê

Thứ hai, bên cạnh số lượng doanh nghiệp thì giá trị sản xuất chế biến nông sản các tỉnh vùng Bắc Trung bộ cũng liên tục tăng. Tỷ trọng của chế biến nông sản chiếm trên 30% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Năm 2019, giá trị sản xuất chế biến nông sản tại các tỉnh vùng Bắc Trung bộ đạt 6.032 tỷ đồng; tốc độ tăng bình quân hàng năm giai đoạn 2017 - 2019 đạt 13,74%. Xem xét giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông sản tại mỗi tỉnh trong vùngcho thấy giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông sản của các tỉnh giai đoạn 2017 - 2019 liên tục tăng. Trong khi Hà Tĩnh và Quảng Trị có tốc độ tăng trưởng cao nhất với tỷ lệ lần lượt là 25,64% và 27,02%, thì các tỉnh khác trong khu vực cũng tăng bình quân khoảng 10%; cụ thể Thanh Hóa là 13,87%; Nghệ An 9,8%; Quảng Bình 6,94%; Thừa Thiên Huế là 14,3%.

 Bảng 3. Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông sản các tỉnh Bắc Trung bộ theo từng tỉnh giai đoạn 2017 - 2019

Đơn vị: Triệu VNĐ

gia_tri_san_xuat_cong_nghiep_che_bien_nong_san_cac_tinh_bac_trung_bo

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Thứ ba, các doanh nghiệp chế biến nông sản đã có sự đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ cơ bản hiện đại hơn. Các nhà máy có công nghệ và thiết bị hiện đại chiếm 85% tổng công suất (gồm các nhà máy liên doanh và 100% vốn nước ngoài, các nhà máy sử dụng thiết bị của Anh, Pháp, Australia, Nhật). Đặc biệt, ngành rau quả cũng đã nâng cấp và đầu tư mới dây chuyền hiện đại, đa dạng, sản phẩm gắn với các vùng nguyên liệu tập trung. Nhiều nhà máy áp dụng nghiêm túc những tiêu chuẩn ISO, HACCP, chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Ngoài ra, các ngành nông sản khác đều xây dựng được những mô hình ứng dụng công nghệ tiên tiến, như các ngành sản xuất chế biến thực phẩm, đồ uống.

Thứ tư, sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến nông sản của các tỉnh Bắc miền Trung trong những năm qua đã góp phần rất lớn đến việc giải quyết vấn đề việc làm, nâng cao thêm thu nhập và cải thiện đời sống người lao động công nghiệp cũng như nông dân trong vùng. Cụ thể, trong giai đoạn 2017 - 2019, các tỉnh vùng Bắc Trung bộ đã thu hút thêm 236.000 lao động, góp phần giải quyết việc làm mới cho nhân dân, cũng giúp làm giảm số lượng lao động xuất khẩu nước ngoài. Lợi ích từ phát triển chế biến nông sản các tỉnh Bắc Trung bộ ngoài tạo ra khối lượng hàng hóa và dịch vụ lớn hơn, phong phú hơn, chất lượng tốt hơn, góp phần quan trọng nâng cao mức tiêu dùng trong nước và tăng xuất khẩu, còn tạo được một thị trường tiêu thụ ổn định cho ngành sản xuất nông nghiệp, góp phần giữ cho nền kinh tế - xã hội ổn định và phát triển những năm qua. Năm 2019, mức nộp ngân sách của hệ thống doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn các tỉnh vùng Bắc Trung bộ chiếm 59% tổng thu ngân sách của toàn bộ doanh nghiệp công nghiệp.

3. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân ảnh hưởng đến sự phát triển của ngành chế biến nông sản tại các tỉnh Bắc Trung bộ

3.1. Những vấn đề tồn tại

Bên cạnh những kết quả đạt được, công nghiệp chế biến nông sản tại các tỉnh Bắc Trung bộ vẫn còn tồn tại những vấn đề cơ bản như sau:

Thứ nhất, năng lực chế biến công nghiệp còn thấp, thể hiện rõ nhất ở khả năng thu hút nông sản nguyên liệu. Hầu hết các ngành đều không đủ công suất chế biến khi vào chính vụ, gây ùn tắc mùa vụ và tổn thất lớn.

Thứ hai, còn tình trạng thiếu vùng nguyên liệu cho các nhà máy chế biến do công suất nhà máy quá lớn hoặc do không xác định vùng nguyên liệu phù hợp. Điển hình là các nhà máy sản xuất đường từ nguyên liệu mía. Điều này dẫn đến tình trạng công suất các nhà máy chỉ được khai thác ở mức thấp.

Thứ ba, trình độ khoa học công nghệ ứng dụng đối với ngành công nghiệp chế biến nhìn chung là thấp. Hệ số đổi mới thiết bị của các cơ sở chế biến trong nước và vùng Bắc Trung bộ khá thấp. Nhiều cơ sở chế biến đã hoạt động gần hai thập kỷ nhưng công nghệ vẫn không được đổi mới, chi phí sản xuất cao. Chưa đa dạng hóa sản phẩm và đa dụng hóa hệ thống thiết bị chế biến một cách tối ưu để tiêu thụ được các loại nông sản đa dạng, khác biệt, nhiều mùa vụ ở nước ta, nhất là các loại rau, củ, quả. Vì thế, hiệu quả đầu tư, sản xuất còn hạn chế.

3.2. Nguyên nhân

Thứ nhất, mức độ liên kết trong chuỗi cung ứng còn yếu. Các chuỗi cung ứng nông sản tại các tỉnh Bắc Trung bộ liên kết với nhau khá rời rạc. Chưa có sự gắn bó chặt chẽ giữa người trồng với các doanh nghiệp chế biến. Điều này ảnh hưởng đến sự tương hỗ lẫn nhau. Người nông dân không đủ thông tin để định hướng đúng loại sản phẩm thị trường cần, đồng thời cũng không đủ vốn và công nghệ để nâng cao giá trị của cây trồng. Trong khi đó, doanh nghiệp chế biến không chủ động được nguồn cung và không được đảm bảo ổn định chất lượng sản phẩm được cung ứng, ảnh hưởng đến giá trị sản phẩm và hoạt động bán hàng cả thị trường nội địa và xuất khẩu.

Thứ hai, một trong những nguyên nhân căn bản của ngành nông sản là rủi ro cao. Điều này khiến cho các doanh nghiệp khó liên kết và đầu tư các mối quan hệ dài hạn. Những rủi ro này xuất phát từ rủi ro nguồn cung, cũng như rủi ro từ thị trường.

Thứ ba, cả Chính phủ và doanh nghiệp chưa đầu tư mạnh mẽ công nghệ như công nghệ sinh học cho ngành chế biến nông sản,, từ đó ảnh hưởng đến cả năng suất và chất lượng sản phẩm nông sản. Tương tự, các công nghệ nuôi trồng và bảo quản cũng chưa được đầu tư thỏa đáng, đã ảnh hưởng đến cả chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm nông sản.

Thứ tư, nhiều chính sách đã được Chính phủ ban hành nhằm hỗ trợ ngành công nghiệp chế biến phát triển. Tuy nhiên, hệ thống chính sách còn chồng chéo, chưa thật sự gắn với thực tế và cập nhật với sự thay đổi của từng vùng miền.

4. Giải pháp phát triển chuỗi/ngành công nghiệp chế biến nông sản các tỉnh Bắc Trung bộ

Từ những vấn đề trên, một số giải pháp phát triển ngành chế biến nông sản các tỉnh Bắc Trung bộ có thể đưa ra như sau:

Thứ nhất, cần tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng. Đúc rút kinh nghiệm từ việc xây dựng các chuỗi cung ứng như chuỗi cung ứng thủy sản miền Tây, để xây dựng được chuỗi cung ứng bền vững, cần xây dựng một doanh nghiệp trung tâm, thông thường là doanh nghiệp chế biến bởi doanh nghiệp chế biến mới đủ lớn để ảnh hưởng các đối tác còn lại trong chuỗi. Ngoài ra, nền tảng của công nghiệp chế biến nông sản bền vững là sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, đảm bảo nguồn nguyên liệu chất lượng tốt, ổn định, đáp ứng các yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm. Kinh tế hộ đơn lẻ không thể tạo nên vùng nguyên liệu. Vì vậy, cần phát huy mạnh hơn vai trò HTX, tổ hợp tác trong liên kết ngang nông dân với nông dân, phát triển trang trại nguyên liệu,... Doanh nghiệp chế biến cần hợp tác, liên kết với nông dân, HTX phát triển vùng nguyên liệu gắn với tiêu thụ nông sản bền vững theo cơ chế mới, chặt chẽ hơn: hỗ trợ nông dân vay vốn, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, thực hiện vai trò đầu tàu trong liên kết chuỗi cung ứng.

Thứ hai, cần kiểm soát tốt hơn các rủi ro đối với các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng chế biến nông sản. Một trong những rủi ro đó là từ nguồn cung. Số lượng và chất lượng cây giống còn khá hạn chế, thậm chí không đủ nguồn cung cấp, phải nhập từ các tỉnh hay nước khác. Trong khi đó, cây giống ảnh hưởng rất lớn đến sự thành bại của các vụ mùa. Để giảm rủi ro từ nguồn cung, cần có các giải pháp từ hai phía cả Nhà nước và doanh nghiệp.

Về phía Nhà nước, cần nâng cao năng lực quản lý nhà nước về giống, đảm bảo bù đắp phần thiếu cây giống cả về số lượng và chất lượng mà doanh nghiệp hay các cơ sở lai tạo cây giống tư nhân không đáp ứng đủ. Về phía doanh nghiệp cũng cần chủ động xây dựng mô hình sản xuất, kinh doanh giống cây trồng đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng, nhu cầu số lượng và giá cả thích hợp. Ngoài rủi ro nguồn cung thì rủi từ thị trường tiêu thụ cũng ảnh hưởng khá lớn đến sự phát triển của chuỗi/ngành nông sản. Nhất là với các sản phẩm xuất khẩu sang thị trường nước ngoài.

Trong bối cảnh covid hiện nay, nền kinh tế thế giới nói chung và các nước nhập khẩu nông sản Việt Nam nói riêng đang gặp nhiều khó khăn. Việc hạn chế đi lại giữa các nước nhằm giảm thiểu lây lan Covid -19 đã khiến việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nói chung và sản phẩm nông sản ở khu vực Bắc Trung bộ nói riêng thêm khó khăn hơn khi cạnh tranh với các nước. Để giải quyết vấn đề này chính phủ cần có sự can thiệp như mua và hỗ trợ phân phối các sản phẩm nông sản cho các doanh nghiệp chế biến hay từ người trồng, cả ở thị trường trong nước và nước ngoài.

Thứ ba, cần đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ. Đầu tiên là công nghệ sinh học trong lai tạo giống. Lai tạo giống luôn là khâu khó khăn nhưng có giá trị gia tăng cao. Tuy nhiên, việc lai tạo giống vẫn chưa được đầu tư xứng đáng. Chính vì vậy, các sản phẩm trong nông sản Việt Nam có chất lượng và năng suất thấp. Điều này không chỉ làm giá trị nông sản Việt Nam thấp mà còn gặp nhiều khó khăn trong xuất khẩu. Một trong những giải pháp quan trọng để phát triển Chuỗi/ngành nông sản chính là đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ sinh học vào trong quá trình lai tạo và phát triển cây giống. Đồng thời, nhân rộng các mô hình sản xuất tiên tiến, thông qua các dự án khuyến nông, từ đó nâng cao chất lượng nguyên liệu cho chế biến; xây dựng các mô hình liên kết doanh nghiệp - nông dân.

Các doanh nghiệp chế biến cũng cần tập trung vào các nhóm thiết bị phục vụ cơ giới hóa các khâu sản xuất nông nghiệp phức tạp nhất (gieo, trồng, cấy, thu hoạch); thiết bị then chốt của dây chuyền công nghệ sơ chế và tinh chế (cung cấp năng lượng, bảo quản, sấy khô, phân loại, thanh trùng, đóng gói, điều khiển tự động,…). Sản phẩm nông sản có đặc tính là nhanh hỏng nếu không được bảo quản tốt. Tuy nhiên, nếu bảo quản bằng các chất hóa học sẽ vi phạm các tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Vì vậy, trước tiên cần ứng dụng các công nghệ bảo quản hiện đại để giữ cho các hàng nông sản được giữ độ tươi lâu. Ngoài ra, cũng nên ứng dụng các khoa học công nghệ chế biến thành các sản phẩm khô để có thể để được lâu dài, đảm bảo đủ thời gian tiêu thụ lượng lớn nông sản. Điều này cũng tránh được vấn đề mất giá nông sản khi được mùa.

Ngoài ra, cần khuyến khích các doanh nghiệp chuyển dịch hợp lý cơ cấu sản phẩm theo hướng chế biến sâu, chế biến tinh cũng như nâng cao chất lượng và tỷ trọng các sản phẩm có giá trị gia tăng cao, hạn chế thấp nhất sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thô. Chú trọng hướng dẫn các doanh nghiệp chế biến nông sản xây dựng và tổ chức thực hiện các quy trình sản xuất tiên tiến đối với từng loại sản phẩm, đảm bảo chất lượng, giảm tỷ lệ tiêu hao vật tư, nguyên liệu và quản lý tốt an toàn thực phẩm, cải tiến, đa dạng hóa hình thức bao bì, mẫu mã sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Hỗ trợ tập huấn về công nghệ thông tin, xây dựng và áp dụng chứng chỉ FSC, CoC, ISO,… cho doanh nghiệp chế biến và người sản xuất nguyên liệu; ưu tiên phổ biến các công nghệ phù hợp, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng cao cho các doanh nghiệp chế biến,...

Bên cạnh những giải pháp từ phía doanh nghiệp chế biến nông sản cũng cần có sự hỗ trợ từ Chính phủ, cụ thể:

Thứ nhất, Chính phủ cần sớm có chiến lược phát triển ngành công nghiệp chế biến và cơ giới hóa nông nghiệp đến năm 2030, làm cơ sở pháp lý để hoàn thiện và tổ chức thực thi các cơ chế chính sách; ban hành, sửa đổi bổ sung một số Nghị định đang thực hiện,... Cùng với đó, các tỉnh Bắc Trung bộ cũng cần rà soát, minh bạch quy hoạch sản xuất nông sản nguyên liệu, kêu gọi đầu tư, gắn nông nghiệp với chế biến tại địa phương, đồng thời còn chủ động ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách của địa phương trong lĩnh vực này.

Thứ hai, cần xây dựng chương trình khoa học công nghệ cấp quốc gia, đẩy mạnh nâng cấp công nghệ chế biến và bảo quản nông sản; tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách; làm rõ các mô hình đầu tư chế biến tối ưu từng ngành hàng, mô hình phát triển vùng nguyên liệu hiệu quả cao, mô hình chuỗi cung ứng kép (ngang và dọc) giữa các cấp độ chế biến, công đoạn sản phẩm và  các chủ thể doanh nghiệp đầu tàu, doanh nghiệp nhỏ, nông dân, HTX,…

Thứ ba, Chính phủ cần hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát hình thành các chuỗi cung ứng kép giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp và với nông dân, có sự kết hợp hài hòa và hiệu quả giữa sơ chế, chế biến, chế biến sâu và bảo quản, tiêu thụ tươi,... Đồng thời, cần có liên kết nội vùng, liên vùng chặt chẽ, có cơ chế “nhạc trưởng” và cơ chế kết nối các địa phương, làm nền tảng cho kết nối công nghiệp chế biến nông sản.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Bạch Quốc Khang (2020), Phát triển công nghiệp chế biến nông sản Việt Nam giai đoạn 2020-2030. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam. <https://vjst.vn/vn/tin-tuc/3421/phat-trien-cong-nghiep-che-bien-nong-san-viet-nam-giai-doan-2020-2030.aspx>.
  2. Minh Thư (2019), Ngành công nghiệp chế biến nông sản - Thực trạng và giải pháp. Con số và sự kiện. <http://consosukien.vn/nganh-cong-nghiep-che-bien-nong-san-thuc-trang-va-giai-phap.htm>.
  3. Nguyễn Xuân Cường (2020). Phát triển ngành chế biến nông sản Việt Nam xứng tầm với khu vực và quốc tế. <https://bnews.vn/phat-trien-nganh-che-bien-nong-san-viet-nam-xung-tam-voi-khu-vuc-va-quoc-te/146118.html>
  4. Lê Thu Hường (2018), Phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững ở các tỉnh Bắc Trung bộ hiện nay. Quản lý Nhà nước. <https://www.quanlynhanuoc.vn/2018/05/21/phat-trien-nong-nghiep-theo-huong-ben-vung-o-cac-tinh-bac-trung-bo-hien-nay>.
  5. Thúy Hằng (2020) Phát triển công nghiệp chế biến nông sản để tăng cường hội nhập. Vụ kế hoạch – Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. <http://vukehoach.mard.gov.vn/News.aspx?id=2571>
  6. Tổng cục Thống kê (2002), Niên giám thống kê Việt Nam 2001. NXB Thống kê, Hà Nội.
  7. Tổng cục Thống kê (2019), Báo cáo tăng trưởng ngành chế biến nông sản theo hình thức doanh nghiệp 2019. NXB Thống kê, Hà Nội.

 

THE CURRENT DEVELOPMENT OF THE NORTH CENTRAL COAST REGION’S AGRICULTURAL PRODUCTS PROCESSING INDUSTRY

Assoc.Prof.PhD. NGUYEN THANH HIEU

Faculty of Business Administration – National Economics University

Ph.D’s student, MBA. NGUYEN HUU SANG

Party Committee of Anh Son Dictrict, Nghe An Province

ABSTRACT:

Although the agricultural products processing industry of the North Central Coast region, Vietnam has gained remarkable achievements, the industry still faces many difficulties such as outdated processing technologies and weak integration. These issues are hindering the industry’s growth. This study analyzes the current development of the North Central Coast region’s agricultural products processing industry. Based on the study’s findings, some solutions are proposed to promote the growth of the region’s agricultural products processing industry in the coming time.

Keywords: agricultural products processing industry, North Central Coast region, processing technology.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, 

Số 11, tháng 5 năm 2021]