Tổng quan các nghiên cứu về chất lượng kiểm toán theo hướng đo lường

LÊ THỊ THANH XUÂN (Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT:

Trên thế giới, các nghiên cứu về chất lượng kiểm toán độc lập (sau đây gọi là CLKT) được thực hiện rất nhiều và xuyên suốt trong một thời gian dài với nhiều hướng tiếp cận khác nhau. Nghiên cứu theo hướng đo lường là một cách tiếp cận trong nghiên cứu về CLKT. Các nghiên cứu theo hướng này gồm có ba nhóm chính: Nghiên cứu đo lường chất lượng “đầu ra”, đo lường chất lượng “đầu vào” và đo lường chất lượng “quy trình” của dịch vụ kiểm toán. Mục đích bài viết hệ thống các nghiên cứu về CLKT theo hướng đo lường.

Từ khoá: Chất lượng kiểm toán, đo lường chất lượng kiểm toán, kiểm toán.

1. Nghiên cứu đo lường chất lượng đầu ra

Trên quan điểm của người sử dụng, CLKT là chất lượng đầu ra của quy trình kiểm toán, đó chính là báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính được kiểm toán. Vì vậy, hướng đo lường chất lượng đầu ra tập trung đo lường sự gia tăng độ tin cậy của người sử dụng đối với báo cáo kiểm toán và báo cáo tài chính được kiểm toán. Các nghiên cứu theo hướng này thường đo lường CLKT thông qua: khả năng phát hiện sai sót trọng yếu; ý kiến kiểm toán sai; chất lượng của báo cáo tài chính; và nhận thức của người sử dụng. Các nghiên cứu theo hướng đầu ra được hệ thống và trình bày ở phần tiếp theo dưới đây.

1.1. Đo lường CLKT dựa trên khả năng phát hiện sai sót trọng yếu

Nghiên cứu đo lường CLKT dựa trên khả năng phát hiện sai sót trọng yếu, với giả thuyết cho rằng CLKT có mối quan hệ cùng chiều với khả năng phát hiện sai sót trọng yếu của kiểm toán viên. Hai trường hợp: (1) báo cáo tài chính trình bày lại, và (2) AAER thường được sử dụng để đo lường khả năng phát hiện sai sót trọng yếu. Báo cáo tài chính trình bày lại là trường hợp báo cáo tài chính buộc phải điều chỉnh những sai sót sau khi đã phát hành. Còn AAER là các trường hợp ghi nhận trong bút lục của tòa án, chúng thuộc những trường hợp bị nghiêm cấm được ban hành trong Công báo thực thi Kế toán và Kiểm toán của Ủy ban Chứng khoán Hoa Kỳ (SEC). Cả hai trường hợp báo cáo tài chính trình bày lại và AAER đều được xem là sai lầm của kiểm toán viên, vì đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần trong khi báo cáo tài chính còn có sai sót trọng yếu.

Trường hợp báo cáo tài chính trình bày lại và AAER được cho là những đại diện đo lường được trực tiếp chất lượng đầu ra, do chúng là những bằng chứng mạnh mẽ cho một CLKT kém. Theo DeFond và Zhang (2014), một phần trong số các trường hợp báo cáo tài chính trình bày lại và AAER được xác định là có gian lận quản lý, đó là bằng chứng cho CLKT kém, bởi vì người sử dụng và các nhà điều hành luật pháp cho rằng phát hiện gian lận là trách nhiệm của kiểm toán viên.

Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra hai hạn chế của phương pháp đo lường này. Thứ nhất, các trường hợp báo cáo tài chính trình bày lại và AAER tương đối hiếm vì vậy làm giảm ý nghĩa thống kê của kết quả nghiên cứu và thiếu tính thực tế do cỡ mẫu quá nhỏ. Theo như kết quả kiểm tra 436 AAER đầu tiên (1982 -1993) của Dechow và cộng sự (1996) cho thấy, trong khoảng 12 năm có 165 trường hợp mô tả kiểm toán viên thiếu chất lượng, như vậy bình quân mỗi năm chỉ có 14 trường hợp. Hay kết quả điều tra 1.485 AAER trong giai đoạn từ năm 1994 đến năm 2003 của Francis (2004) kết luận đa số các AAER không hướng về kiểm toán viên.

Hạn chế thứ 2, khi không xảy ra trường hợp báo cáo tài chính trình bày lại hay các AAER, thì không có nghĩa là cuộc kiểm toán đó có chất lượng cao. Theo DeFond và Zhang (2014), một cuộc kiểm toán chất lượng thấp vẫn có thể ngăn chặn được những lỗi đã bị phát hiện trong các trường hợp báo cáo tài chính trình bày lại hay AAER, nhưng không ngăn chặn được những sai phạm về các nguyên tắc kế toán (GAAP) về hành vi chi phối thu nhập.

1.2. Đo lường CLKT dựa trên ý kiến kiểm toán sai

Ý kiến kiểm toán là phương tiện truyền thông trực tiếp của kiểm toán viên với người sử dụng báo cáo tài chính về quy trình kiểm toán và kết quả đầu ra của quy trình kiểm toán. Loại ý kiến kiểm toán “Going concern” (GC), truyền đạt đánh giá của kiểm toán viên về nghi ngờ đáng kể đến khả năng hoạt động liên tục của khách hàng. Hai trường hợp: (1) không đưa ra ý kiến GC khi có lý do xác đáng để đưa ra nó, và (2) đưa ra ý kiến GC khi không có lý do xác đáng, được sử dụng để đo lường chất lượng đầu ra. Cả hai trường hợp đều được xem là ý kiến sai lầm của kiểm toán viên và đó là bằng chứng của một CLKT kém.

Hướng nghiên cứu này dựa trên quan điểm cho rằng, ý kiến GC sẽ làm cho khách hàng phải gánh chịu các chi phí, vì vậy các nhà quản lý có động cơ tạo ra những sức ép để kiểm toán viên đưa ra một ý kiến “sạch”. Nếu kiểm toán viên không vượt qua sức ép này sẽ làm mất đi tính độc lập, dẫn đến họ không đưa ra ý kiến GC khi có lý do xác đáng, do đó làm giảm CLKT.

Mặt khác, ý kiến GC được đưa ra khi không đủ lý do xác đáng cho thấy kiểm toán viên đã bảo thủ quá mức, cũng là bằng chứng của CLKT kém. Quan điểm của Kaplan và Williams (2013) cho rằng, kiểm toán viên có khuynh hướng phát hành GC nhiều hơn so với trường hợp thích hợp để làm giảm trách nhiệm pháp lý của họ. Quan điểm này được minh chứng bởi kết quả của các nghiên cứu trước đó. Như kết quả của Francis và Krishnan (2002) cho thấy, cứ mỗi 7 GC được phát hành chỉ có khoảng 1 công ty bị phá sản, có nghĩa là trung bình có 6/7 GC phát hành là sai lầm của kiểm toán viên.

Sử dụng đại diện ý kiến GC để đo lường CLKT là phương pháp đo lường được trực tiếp CLKT, bởi ý kiến kiểm toán là sản phẩm đầu ra của quy trình kiểm toán. Tuy nhiên cũng giống như đại diện đo lường là báo cáo trình bày lại và AAER, ý kiến GC cũng rất ít được phát hành, điều này làm giảm ý nghĩa của kết quả nghiên cứu CLKT dựa trên đại diện này.

1.3. Đo lường CLKT qua chất lượng của báo cáo tài chính

Chất lượng báo cáo tài chính (đã được kiểm toán) là một thành phần của CLKT, giả thuyết này dựa trên quan sát thực tế báo cáo tài chính là sản phẩm chung của nhà quản lý và kiểm toán viên (Magee và Tseng, 1990; Antle và Nalebuff, 1991). Vì vậy, mối liên hệ giữa CLKT và chất lượng báo cáo tài chính là chặt chẽ và trực quan. Khi mà CLKT được xem là một sự đảm bảo cao hơn tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính, thì đo lường chất lượng báo cáo tài chính là phương pháp thích hợp để đo lường CLKT.

Chất lượng báo cáo tài chính là một khái niệm khá rộng, các nhà nghiên cứu chủ yếu sử dụng thước đo hành vi chi phối thu nhập để đo lường chất lượng báo cáo tài chính. Hành vi chi phối thu nhập là việc sử dụng các kỹ thuật kế toán để có thể tạo lập báo cáo tài chính với một bức tranh lạc quan quá mức về hoạt động kinh doanh và tài chính của công ty so với thực tại. Hành vi chi phối thu nhập được thực hiện dựa trên lợi thế các nguyên tắc kế toán được phép áp dụng một cách linh hoạt khi công ty ghi nhận các khoản chi phí có thể gánh chịu và doanh thu.

Hướng nghiên cứu sử dụng thước đo hành vi chi phối thu nhập để đo lường chất lượng báo cáo tài chính được thúc đẩy bởi giả thuyết, CLKT cao sẽ chế ngự hành vi chi phối thu nhập. Một cuộc kiểm toán có chất lượng cao sẽ hữu hiệu trong việc ngăn chặn hành vi chi phối thu nhập, bởi vì danh tiếng của nhà quản lý có thể bị tổn hại và giá trị của công ty sẽ giảm sút nếu báo cáo sai bị phát hiện và bị tiết lộ ra bên ngoài (Becker và cộng sự, 1998). Phương pháp được sử dụng nhiều nhất là dựa trên mô hình dồn tích bất thường của Jones (1991). Các nghiên cứu sử dụng phương pháp này như của Becker và cộng sự (1998), Francis và cộng sự (1999), Zhou và Elder (2004); Chen và cộng sự (2011), Balsam và cộng sự (2003), Krishnan (2003), Reichelt và Wang (2010), Chi và cộng sự (2011).

Đo lường CLKT thông qua chất lượng báo cáo tài chính là phương pháp đo lường được chất lượng đầu ra thực tế của quy trình kiểm toán. Tuy nhiên, phương pháp này ít trực tiếp hơn so với phương pháp sử dụng đại diện là báo cáo tài chính trình bày lại và GC, bởi vì ảnh hưởng của kiểm toán viên đến chất lượng báo cáo tài chính là hạn chế hơn.

1.4. Đo lường CLKT qua nhận thức của người sử dụng

Theo hướng này, CLKT được đo lường qua nhận thức của người sử dụng về CLKT, gồm: (1) nhận thức của nhà đầu tư trên thị trường kiểm toán (TTCK), và (2) nhận thức của Ủy ban kiểm toán.

Để đo nhận thức của nhà đầu tư, các nghiên cứu thường sử dụng các đại diện là hệ số phản ứng thu nhập (ERC - Earning Response Coefficients), chi phí nợ và vốn. Các ERC là hệ số tương quan giữa thu nhập bất thường với những thay đổi trong giá cổ phiếu. Các nghiên cứu sử dụng ERC đo lường CLKT dựa trên giả thuyết các doanh nghiệp có kiểm toán chất lượng cao sẽ có hệ số ERC cao. Các nhà nghiên cứu cung cấp bằng chứng hệ số ERC của các khách hàng thuộc nhóm Big N (đại diện CLKT cao) cao hơn đáng kể so với các khách hàng không thuộc nhóm Big N (Teoh và Wong, 1993).

Các nghiên cứu sử dụng đại diện chi phí vốn và nợ dựa trên giả thuyết có mối quan hệ giữa CLKT với chi phí vốn và nợ của các doanh nghiệp ở những năm đầu là công ty đại chúng (doanh nghiệp trẻ). Giá cổ phiếu IPO của các doanh nghiệp được kiểm toán bởi các công ty kiểm toán có uy tín là cao hơn, bởi vì nhà đầu tư đánh giá nó ít rủi ro hơn (Copley và Douthett, 2002). Các doanh nghiệp có kiểm toán chất lượng cao có chí phí lãi vay thấp hơn, bởi người cho vay có thể thích các doanh nghiệp trẻ tạo uy tín để trả nợ thông qua việc họ sử dụng kiểm toán có chất lượng cao (Big N) (Pittman và Fortin, 2004; Mansi và cộng sự, 2004). Một số nghiên cứu cung cấp bằng chứng các doanh nghiệp kiểm toán bởi Big N có chi phí vốn và chi phí nợ thấp hơn so với các doanh nghiệp không được kiểm toán bởi Big N.

Với phương pháp đo lường nhận thức của Ủy Ban kiểm toán, các nhà nghiên cứu dựa trên thay đổi thị phần khách hàng của các công ty kiểm toán để kết luận về CLKT. Sự thay đổi trong thị phần khách hàng có thể là kết quả việc Ủy Ban kiểm toán miễn nhiệm kiểm toán viên. Dẫn chứng các sai sót của cuộc kiểm toán làm suy yếu khả năng thu hút và giữ chân khách hàng của công ty kiểm toán, các nghiên cứu của DeAngelo (1981), Lennox (1999), Khurana và Raman (2004), Weber và cộng sự (2008) kết luận danh tiếng của công ty kiểm toán có thể giữ chân được khách hàng.

Ưu điểm của phương pháp đo lường nhận thức ở chỗ nó đo lường CLKT một cách toàn diện hơn so với các phương pháp đo lường chất lượng đầu ra khác, tuy nhiên nhược điểm là ít trực tiếp hơn. Nhất là đối với phương pháp đo lường nhận thức của nhà đầu tư, bởi vì ảnh hưởng của kiểm toán viên đối với giá trị của công ty là tương đối nhỏ so với các yếu tố khác thuộc phạm vi công ty và nền kinh tế toàn cầu (DeFond và Zhang, 2014).

2. Nghiên cứu đo lường chất lượng đầu vào

Phương pháp đo lường chất lượng đầu vào sử dụng các yếu tố đầu vào của quy trình kiểm toán để đánh giá CLKT. Hai đại diện thường được sử dụng là: Các đặc điểm riêng biệt của kiểm toán viên và phí kiểm toán.

2.1. Các đặc điểm riêng biệt của kiểm toán viên

Các đại diện đặc điểm riêng biệt của kiểm toán viên như quy mô công ty, uy tín công ty và tính chuyên môn hóa, thường được sử dụng để đo lường CLKT. Quy mô công ty và uy tín công ty được đo bởi nhóm Big N, chúng được sử dụng làm đại diện cho CLKT cao dựa trên tiền đề các công ty kiểm toán lớn và có uy tín được mong đợi có năng lực mạnh hơn, cũng như được khuyến khích nhiều hơn để cung cấp CLKT cao. Tính chuyên môn hóa của kiểm toán viên được đo bằng sự tập trung các khách hàng trong cùng một ngành và được sử dụng làm đại diện cho CLKT cao dựa trên giả thuyết kiểm toán viên có chuyên môn sâu được mong đợi có năng lực tốt hơn và danh tiếng mạnh hơn để cung cấp CLKT cao.

Một số nghiên cứu sử dụng các thước đo này như là biến phụ thuộc, để kiểm tra các yếu tố thúc đẩy nhu cầu của khách hàng về CLKT (lựa chọn kiểm toán viên), như nghiên cứu của Wang và cộng sự (2008) tìm kiếm các yếu tố dẫn đến việc khách hàng lựa chọn kiểm toán chất lượng cao (Big N). Một số nghiên cứu khác sử dụng chúng như là biến độc lập, để kiểm tra liệu các đặc điểm riêng biệt của kiểm toán viên có ảnh hưởng đến CLKT cung cấp hay không. Như nghiên cứu của Craswell và cộng sự (1995) kết luận, thương hiệu và tính chuyên môn hóa là một trong những yếu tố làm phí kiểm toán của nhóm Big N cao hơn mức trung bình; hay Francis (2004) cho rằng báo cáo tài chính khách hàng của Big N có chất lượng cao hơn; còn nghiên cứu của Lennox và Pittman (2010b) khi kiểm tra mối quan hệ giữa khách của Big N với gian lận kế toán đã đưa ra kết luận gian lận kế toán ở khách hàng của Big N là thấp hơn.

Đặc trưng của các thước đo này là các đặc điểm cố định của kiểm toán viên. Có nghĩa là kiểm toán viên không thể cải thiện được CLKT mà mình cung cấp bằng cách trở thành Big N, hay là chuyên gia trong ngắn hạn. Ngược lại, khách hàng kiểm toán có thể cải thiện CLKT mà họ nhận được, bằng cách chọn một Big N hay kiểm toán viên có tính chuyên môn hóa để kiểm toán cho mình. Chính vì những đặc điểm này mà các nhà nghiên cứu cho rằng, sử dụng thước đo là các đại diện đặc điểm riêng biệt của kiểm toán viên hữu ích trong các nghiên cứu kiểm tra nhận thức của khách hàng về các yếu tố của CLKT.

2.2. Phí kiểm toán

Thông tin về CLKT cũng có thể được chuyển tải qua phí kiểm toán. Phí kiểm toán được sử dụng làm đại diện đo lường CLKT, bởi vì nó được mong đợi đo lường nỗ lực của kiểm toán viên, đó là yếu tố đầu vào của quy trình kiểm toán mà bằng trực quan có thể thấy nó có ảnh hưởng đến CLKT.

Rất nhiều các nghiên cứu có cùng quan điểm cho rằng, một mức phí kiểm toán cao có thể làm tăng nỗ lực áp dụng các kỹ thuật chất lượng của kiểm toán viên, tăng khả năng sử dụng các kiểm toán viên có chất lượng cao và như vậy làm cho CLKT tăng lên (như nghiên cứu của DeAngelo 1981; Simunic, 1984; Francis, 1984; Palmrose, 1986; Francis và Stokes, 1986; Francis và Simon, 1987; Chaney và cộng sự, 2004).

Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác (như nghiên cứu của Hoitash và cộng sự, 2007; Choi và cộng sự (2010)) đưa ra bằng chứng ngược lại, phí kiểm toán có mối quan hệ nghịch với CLKT. Kết quả này củng cố giả thuyết cho rằng, khi kiểm toán viên nhận một mức phí cao hơn bình thường thì lợi ích khi họ được khách hàng giữ lại cao hơn chi phí họ phải bỏ ra cho một báo cáo kém chất lượng, điều này dẫn đến kiểm toán viên sẽ mất đi tính độc lập, hậu quả dẫn đến một CLKT kém. Ngoài ra, kết quả này còn ủng hộ quan điểm, một mức phí kiểm toán cao còn cho thấy có rủi ro kiểm toán viên đã tính mức phí cao hơn mức cần thiết để cải thiện chất lượng cuộc kiểm toán. Có nghĩa là sự gia tăng phí kiểm toán không hoàn toàn là sự gia tăng CLKT.

3. Nghiên cứu đo lường chất lượng quy trình

Nghiên cứu đo lường chất lượng quy trình được phát triển trên quan điểm chất lượng kiểm toán chịu ảnh hưởng bởi chất lượng của quy trình kiểm toán, vì vậy cần thiết phải kết hợp cả đo lường chất lượng đầu ra và đo lường chất lượng quy trình (Moizer, 1998). Nếu như đo lường chất lượng đầu ra tập trung vào sự gia tăng độ tin cậy của người sử dụng báo cáo tài chính đối với báo cáo kiểm toán, thì đo lường chất lượng quy trình tập trung vào các công việc được thực hiện bởi các kiểm toán viên, và sự tuân thủ của kiểm toán viên đối với các chuẩn mực của nghề nghiệp hay của chính công ty (Sutton, 1993).

Các nghiên cứu đo lường chất lượng quy trình tập trung phát triển mô hình đo lường CLKT. Nghiên cứu đo lường chất lượng quy trình không nhiều, các nghiên cứu đầu tiên tập trung làm rõ những vấn đề quyết định môi trường kiểm toán (như của Gibbins và Wolf, 1982). Sau đó, nghiên cứu của Mock và Samet (1982) phát triển thành các câu hỏi đo lường. Đây được cho là nghiên cứu đầu tiên nỗ lực đưa ra cách thức đo lường CLKT. Đến nghiên cứu của Sutton và Lampe (1991), xây dựng được mô hình AEQ để đo lường CLKT. Mô hình AEQ xác định các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của chúng đến chất lượng quy trình của một cuộc kiểm toán.

Các công cụ đo lường trong nghiên cứu của Sutton và Lampe (1991) tiếp tục được hoàn thiện bởi nghiên cứu của Sutton (1993). Nghiên cứu của Sutton và Lampe (1991), Sutton (1993) được cho là hoàn thiện hơn so với các nghiên cứu trước đó, ở chỗ nghiên cứu của họ không chỉ đánh giá quy trình nhóm tham gia kiểm toán, mà còn đưa ra công thức đo lường phức tạp các giai đoạn kiểm toán, các nhân tố CLKT và công cụ đo lường mối liên kết giữa các nhân tố.

Ưu điểm của phương pháp đo lường chất lượng quy trình là bằng trực quan có thể nhận thấy chất lượng quy trình có ảnh hưởng trực tiếp đến CLKT và có thể đo lường chất lượng của một cuộc kiểm toán cụ thể. Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là phải dựa trên giả định rằng nhận thức của kiểm toán viên ở các cuộc kiểm toán khác nhau về tầm quan trọng đối với các yếu tố là như nhau.

4. Kết luận

CLKT là một khái niệm phức tạp, dưới các góc nhìn khác nhau của các bên tham gia thị trường kiểm toán CLKT cũng được nhìn nhận theo những cách khác nhau. Điều này dẫn đến có nhiều hướng nghiên cứu về đo lường CLKT. Trong khi các nghiên cứu đo lường chất lượng “đầu ra” là hướng tiếp cận dưới góc nhìn của người sử dụng dịch vụ kiểm toán, thì các nghiên cứu đo lường chất lượng “đầu vào” và chất lượng “quy trình” là theo hướng tiếp cận dưới góc nhìn của kiểm toán viên. Các nghiên cứu theo hướng đo lường CLKT rất đa dạng, chúng cho thấy các nhà nghiên cứu đã nỗ lực tìm kiếm các cách thức để đo lường CLKT và đạt được những kết quả nhất định. Bên cạnh hướng nghiên cứu về đo lường, hướng nghiên cứu xác định các nhân tố ảnh hưởng đến CLKT cũng đã được thực hiện nhiều trên thế giới trong những năm qua.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Antle, R., and Nalebuff, B. (1991). Conservatism and auditor-client negotiations.Journal of Accounting Research, 31 - 54.

2. Becker, C. L., DeFond, M. L., Jiambalvo, J., and Subramanyam, K. R. (1998). The effect of audit quality on earnings management.INTERNATIONAL REVIEWS OF IMMUNOLOGY,16, 1 - 24

3. Chaney, P. K., Jeter, D. C., and Shivakumar, L. (2004). Self-selection of auditors and audit pricing in private firms.The Accounting Review,79(1), 51 - 72.

4. Choi, J. H., Kim, J. B., and Zang, Y. (2010). Do abnormally high audit fees impair audit quality?.Auditing: A Journal of Practice and Theory,29(2), 115 - 140.

5. Craswell, A. T., Francis, J. R., and Taylor, S. L. (1995). Auditor brand name reputations and industry specializations.Journal of accounting and economics,20(3), 297 - 322.

6. DeAngelo, L. E. (1981). Auditor size and audit quality.Journal of accounting and economics,3(3), 183 - 199.

7. DeFond, M., and Zhang, J. (2014). A review of archival auditing research.Journal of Accounting and Economics,58(2), 275 - 326.

8. Duff, A. (2004).Auditqual: Dimensions of audit quality. Edinburgh: Institute of Chartered Accountants of Scotland.

9. Francis, J. R. (2011). A framework for understanding and researching audit quality.Auditing: A journal of practice and theory,30(2), 125 - 152.

10. Francis, J. R., and Ke, B. (2006). Disclosure of fees paid to auditors and the market valuation of earnings surprises.Review of Accounting Studies,11(4), 495 - 523.

11. Francis, J. R., and Simon, D. T. (1987). A test of audit pricing in the small-client segment of the US audit market.Accounting Review, 145 - 157.

12. Francis, J. R., and Yu, M. D. (2009). Big 4 office size and audit quality.The Accounting Review,84(5), 1521 - 1552.

13. Francis, J. R., Maydew, E. L., & Sparks, H. C. (1999). The role of Big 6 auditors in the credible reporting of accruals.Auditing: A Journal of Practice & Theory,18(2), 17 - 34.

14. Gibbins, M., and Wolf, F. M. (1982). Auditors' Subjective Decision Environment-The Case of a Normal External Audit.Accounting Review, 105 - 124.

15. Hoitash, R., Markelevich, A., and Barragato, C. A. (2007). Auditor fees and audit quality.Managerial Auditing Journal,22(8), 761 - 786.

16. Kaplan, S. E., and Williams, D. D. (2012). Do going concern audit reports protect auditors from litigation? A simultaneous equations approach.The Accounting Review,88(1), 199 - 232.

17. Knechel, W. R., Krishnan, G. V., Pevzner, M., Shefchik, L. B., and Velury, U. K. (2012). Audit quality: Insights from the academic literature.Auditing: A Journal of Practice and Theory,32(sp1), 385 - 421.

18. Lennox, C. S. (1999). Audit quality and auditor size: An evaluation of reputation and deep pockets hypotheses.Journal of Business Finance and Accounting,26(78), 779 - 805.

19. Magee, R. P., and Tseng, M. C. (1990). Audit pricing and independence.Accounting Review, 315 - 336.

20. Mock, T. J., and Samet, M. (1982, May). A multi-attribute model for audit evaluation. InProceedings of the VI University of Kansas Audit Symposium(pp. 20 - 21).

OVERVIEW OF RESEARCHES ON AUDIT QUALITY

IN THE DIRECTION OF MEASUREMENT

● LE THI THANH XUAN

Ho Chi Minh City Open University

ABSTRACT:

Currently, the researches on the quality of independent audit have been carried out extensively over a long period of time with many different approaches. Measure-oriented research is an approach in these researches. It consists of three main groups: Research on quality measurement "output", "input quality measurement", and quality measurement "process" of auditing services. The purpose of the article is to provide a systematic study of these reseaches in the direction of measurement.

Keywords: Quality audit, quality measurement audit, auditing.

Xem tất cả ấn phẩm Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ số 10 tháng 09/2017 tại đây