Triển vọng của ngành công nghiệp hóa dầu nước ta

Điểm qua sự phát triển một số sản phẩm trong ngành công nghiệp hóa dầu cho thấy, về tổng thể, cơ hội và dư địa cho phát triển sản xuất hóa dầu tại Việt Nam rất có triển vọng.
Công trình Khí-Điện-Đạm Cà Mau
Công trình Khí-Điện-Đạm Cà Mau

Hóa dầu là các sản phẩm hóa chất được thay đổi cấu trúc phân tử của nguyên liệu đầu vào là dầu mỏ hoặc các sản phẩm trung gian của nhà máy lọc dầu hoặc từ khí thiên nhiên. Các sản phẩm hóa dầu được ứng dụng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ bao bì thức ăn đến đồ dùng trong nhà, ngoài đường và nơi làm việc.

Trong máy bay đời mới hiện đại nhất là Boeing 787 Dreamliner, vật liệu tổng hợp hiện đại từ các sản phẩm hóa dầu chiếm hơn nửa cấu trúc chính. Có thể nói rằng, ngành hóa dầu đóng vai trò kết nối lĩnh vực khai thác dầu khí với các ngành công nghiệp quan trọng của nền kinh tế, từ dệt may, chất dẻo, cao su đến dược phẩm, mỹ phẩm…

Cơ sở của nền công nghiệp hóa dầu là các olefin nhẹ như ethylene, propylene, butadiene… và các hydrocarbon thơm như: benzene, toluene, xylene (gọi chung là BTX), từ đó sản xuất ra hàng ngàn sản phẩm công nghiệp và tiêu dùng. Trong dầu mỏ hay khí thiên nhiên không có các olefin, còn các hợp chất BTX thì có trong dầu mỏ với hàm lượng thấp, không đủ để tách ra và sử dụng ở quy mô công nghiệp.

Các olefin và BTX đều phải được tạo ra thông qua các quá trình chuyển hóa hóa học khác nhau, từ các phân đoạn dầu mỏ và khí thiên nhiên như methane, ethane, propane, butane cũng như các phân đoạn chứa các hydrocarbon có nhiệt độ sôi cao. Đó là những quá trình chuyển hóa hóa học ở nhiệt độ cao hoặc ở nhiệt độ cao cùng với sự có mặt của chất xúc tác.

Việt Nam trong tương lai cũng không nằm ngoài xu hướng thế giới với việc kết hợp lọc và hóa dầu trong một nhà máy để tăng lợi nhuận với xu thế tăng dần hướng sản xuất các sản phẩm hóa dầu là điều hiển nhiên. Các tổ hợp lọc hóa dầu sẵn có như Dung Quất, Nghi Sơn, Long Sơn… có thể chế biến các loại dầu thô có chất lượng thấp với giá rẻ hơn thành các sản phẩm lọc dầu sạch và ít gây ô nhiễm môi trường hơn; ngoài xăng dầu sẽ có thêm các loại nhựa đường, dầu nhờn, lưu huỳnh và nhiều chủng loại sản phẩm trung gian và thành phẩm hóa dầu mới.

CỤ thể, Công ty Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) có công suất lọc dầu 148 nghìn thùng/ngày (tương đương 6,5 triệu tấn/năm) và có thể xử lý 67 loại dầu thô khắp thế giới. Sản phẩm của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất  bao gồm xăng A92 và A95; nhiên liệu phản lực JET A1, nhựa đường, dầu ô tô diesel, dầu FO, khí ga hóa lỏng LPG, và nhựa polypropylene (PP).

Theo báo cáo của Solomon Associates – Công ty đánh giá có uy tín về hiệu quả của trên 85% nhà máy lọc dầu toàn cầu, NMLD Dung Quất là một trong những nhà máy lọc dầu có hiệu quả hoạt động cao ở vùng Châu Á - Thái Bình Dương. BSR đạt mức cao trên các thước đo hiệu quả chủ đạo của Solomon như độ sẵn sàng vận hành 94.1 %, công suất sử dụng 94.2%, và Chỉ số hiệu quả năng lượng của Nhà máy 111%.

Chế biến Dầu khí là một trong 5 lĩnh vực sản xuất kinh doanh cốt lõi của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), là một mắt xích quan trọng tạo nên chuỗi giá trị gia tăng hoàn chỉnh của ngành dầu khí Việt Nam từ khâu Tìm kiếm thăm dò, Khai thác - Khí - Điện - Chế biến & Phân phối sản phẩm và Dịch vụ dầu khí, cung cấp các sản phẩm thiết yếu cho nền kinh tế đất nước như xăng dầu, phân bón, hóa chất, nhựa, xơ sợi…

Hàng năm, lĩnh vực chế biến dầu khí đóng góp khoảng 20%-25% tổng doanh thu của toàn Tập đoàn, có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực quốc gia, góp phần bình ổn thị trường trong nước và thúc đẩy sự nghiệp phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Cùng với đó là các nhà máy Đạm Phú Mỹ và Đạm Cà Mau đã và đang sản xuất, cung cấp ra thị trường hàng năm khoảng 1,6 triệu tấn urê (chiếm khoảng 75% nhu cầu thị trường urê trong nước) và các sản phẩm phân bón khác như NPK, phân bón hữu cơ, vi sinh ứng dụng khoa học công nghệ cao… góp phần ổn định thị trường phân bón trong nước, hỗ trợ người nông dân trong sản xuất nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực Quốc gia. Nhà máy Đạm Phú Mỹ, được coi là đứa con đầu lòng của ngành hóa dầu đã phát triển và có đóng góp đặc biệt quan trọng vào nền nông nghiệp nước nhà. Sau hơn 17 năm vận hành đến ngày 30/6/2021, sản lượng urê đạt 13.044.354 tấn. Với sự ra đời của Đạm Phú Mỹ, lần đầu tiên một công trình trọng điểm nằm trong Chương trình khí - điện - đạm của Nhà nước đạt được cả ba mục tiêu: Chất lượng, tiến độ và hiệu quả. Tiến độ xây dựng được hoàn thành trong 34 tháng. Chi phí đầu tư 380 triệu USD; so với tổng dự toán được duyệt là 445 triệu USD, tiết kiệm được 65 triệu USD; so với hạn mức đầu tư 486 triệu USD, tiết kiệm được 106 triệu USD.

Đối với Nhà máy Đạm Cà Mau, công suất 800.000 tấn urê/năm được xây dựng trên diện tích 52 ha tại địa bàn xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau, với tổng mức đầu tư 900,2 triệu USD. Công nghệ được áp dụng cho Nhà máy đều là các công nghệ tiên tiến và hiện đại nhất hiện nay, bao gồm: Công nghệ sản xuất Ammonia của Haldor Topsoe SA (Đan Mạch); công nghệ sản xuất urê của SAIPEM (Italy); công nghệ vê viên tạo hạt của Toyo Engineering Corp. (Nhật Bản). Hầu hết các thiết bị chính, quan trọng đều có xuất xứ từ EU/G7. Các tiêu chuẩn áp dụng cho nhà máy là các tiêu chuẩn quốc tế (ASME, API, JIS…) và các tiêu chuẩn bắt buộc về môi trường và an toàn, phòng chống cháy nổ của Việt Nam.

Ngoài ra, trong công nghiệp hóa dầu trong lĩnh vực dệt may có Nhà máy xơ sợi Polyester Đình Vũ đang sản xuất các sản phẩm sợi tái chế (sợi DTY tái chế) chất lượng cao cung cấp cho thị trường trong nước và khu vực, có ý nghĩa bảo vệ môi trường. Tính đến nay, Nhà máy Xơ sợi Đình Vũ đã sản xuất hơn 6.000 tấn sợi DTY các loại, chất lượng sản phẩm loại AA hơn 92%, sản phẩm từ sợi tái sinh loại A đạt 90%. Đặc biệt, sau rất nhiều nỗ lực cải tiến công nghệ, nâng cao tay nghề cũng như ý thức kỷ luật trong lao động của đội ngũ công nhân, cùng sự hỗ trợ của các chuyên gia đến từ SSFC, sản phẩm sợi DTY của VNPoly đã được nhiều hãng thời trang hàng đầu thế giới chấp thuận cho doanh nghiệp này trở thành nhà cung cấp sợi.

Điểm qua sự phát triển một số sản phẩm trong ngành công nghiệp hóa dầu cho thấy, về tổng thể, cơ hội và dư địa cho phát triển sản xuất hóa dầu tại Việt Nam rất có triển vọng. Theo nghiên cứu của Viện Dầu khí Việt Nam, với mức tiêu thụ trên đầu người chỉ bằng 1/5 so với thế giới thì nhu cầu các sản phẩm hóa dầu của Việt Nam vào năm 2035 là khoảng 10 triệu tấn, trong đó PE, PP, PVC, PET là các sản phẩm có mức tiêu thụ lớn nhất. Để phát triển ngành công nghiệp hóa dầu, Nhà nước cần có những chính sách phù hợp với khả năng thực tế của các doanh nghiệp và nhu cầu thị trường luôn biến động trong khu vực và trên thế giới. Do năng lực về công nghệ và tài chính có hạn, Việt Nam rất cần hợp tác với các đối tác nước ngoài để có được công nghệ tiến bộ nhất có thể cũng như giảm bớt gánh nặng tài chính. Riêng về nhân lực, Việt Nam có thể tự tin vào khả năng tiếp nhận và vận hành các quy trình công nghệ hiện đại cùng các đối tác.

[Quảng cáo]

Bình Ca