Truyền thống 65 năm Than Mạo Khê được phát huy nhờ “3 hóa”

Ngoài những khó khăn chung của các đơn vị sản xuất than hầm lò,Than Mạo Khê còn phải đối diện với những khó khăn đặc thù, nhưng nhờ chủ động thực hiện “3 hóa” theo chủ trương của TKV, Công ty luôn hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa

Các khó khăn chủ yếu của Than Mạo Khê là: Diện sản xuất ngày càng xuống sâu, xa trung tâm và phân tán, nguy cơ về cháy nổ khí mỏ, bục nước cao; nhiều phay phá, chiều dày vỉa thay đổi liên tục. Điều kiện địa chất phức tạp, áp lực mỏ lớn, chất lượng than xấu, khiến một loạt các chi phí như thông gió, ngăn ngừa cháy nội sinh, thăm dò địa chất, chuyển diện sản xuất, bóc tách đất đá, sàng tuyển cao và tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn lao động…

Than Mạo Khê khai thác xuống sâu
Diện sản xuất của Than Mạo Khê ngày càng xuống sâu

Nhằm tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động… hướng đến xây dựng các “mỏ xanh, mỏ hiện đại, mỏ ít người”, Than Mạo Khê đã xây dựng chương trình hành động ứng dụng cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa vào sản xuất kinh doanh và quản lý.

Những năm trước, việc áp dụng khoa học công nghệ còn hạn chế, để khai thác được 1 tấn than đòi hỏi tốn kém về nhân công vật tư, vật liệu. Đến nay, với chương trình cơ giới hóa, Than Mạo Khê đã loại bỏ toàn bộ các lò chợ chống gỗ và lò chợ chống bằng thủy lực đơn, thay vào đó là các lò chợ chống giữ bằng giá thủy lực di động ZHF/1600/16/24.

Công nghệ này thích hợp với vỉa than mỏng, vỉa dày trung bình và thích ứng trong điều kiện lò chợ khai thác bằng phương pháp khoan nổ mìn (độ dốc lớn đến 50 độ). Khi chuyển đổi công nghệ, ngoài giải pháp bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ thợ lò tại các cơ sở đào tạo của ngành Than, Công ty đã tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ cho trên 300 thợ lò.

Sau khi được hướng dẫn quy trình thao tác, sử dụng, dự báo một số tình huống sự cố thường gặp cùng biện pháp sử lý, các học viên còn được trực tiếp thao tác vận hành, nêu lên những thắc mắc, trên tinh thần cầu thị, hiệu quả giữa “Học đi đôi với hành”

Đối với tự động hóa, Công ty có nhiều công trình được đưa vào vận hành gần đây như: “Hệ thống tự động hoá điều khiển tập trung các tuyến băng tải vận chuyển than dưới hầm lò và trên mặt bằng”, gồm 11 băng tải với hệ thống điều khiển được đầu tư hiện đại, có các chức năng chính: Điều khiển từ xa bằng màn hình cảm ứng; camera giám sát hình ảnh; hệ thống thông tin đàm thoại di động dọc tuyến, kết hợp bổ sung các thiết bị nam châm hút sắt, sàng rung tách đá quá cỡ, để đảm bảo an toàn khi vận hành và tránh rách băng, hư hỏng thiết bị. Hệ thống đưa vào vận hành đã giảm từ 45 lao động còn 12...

Hiện công ty có hệ thống tự động hóa các khâu sàng tuyển như: Dây chuyền tuyển huyền phù tự sinh và huyền phù manhetit; dây chuyền sàng tuyển khí, sàng khô, được giám sát bằng hệ thống camera; hệ thống kiểm soát người ra vào lò, quản lý nhà ăn ca có ứng dụng công nghệ nhận dạng sóng radio RFID; hệ thống quan trắc khí mỏ và trạm quan trắc tự động; hệ thống tự động hóa điều khiển tập trung các tuyến băng tải vận chuyển than dưới hầm lò và trên mặt bằng…

Công ty tiếp tục đầu tư hệ thống tự động hóa điều khiển trạm quạt +120, hệ thống monoray vận chuyển vật tư trong lò, tự động hóa lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống chấm công bằng công nghệ nhận diện khuôn mặt và vân tay; hệ thống tuyên truyền bằng hình ảnh, nâng cấp mạng LAN. Giai đoạn 2019 – 2020, tiếp tục tự động hóa trạm quạt +69, +45; trạm bơm nước bể 3.000m3, bơm nước sinh hoạt, bơm nước môi trường và tự động hóa các trạm nén khí. Các hoạt động này giúp tăng năng suất lao động và nâng cao độ an toàn trong sản xuất.

Trong tin học hóa, Công ty đã đầu tư sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, như: Phần mềm quản lý văn bản trên nền website: www.mis.thanmaokhe.vn; Cổng thông tin điện tử www.thanmaokhe.vn; các phần mềm quản lý nội bộ (quản lý nhân sự của TKV; kế toán tài chính; quản lý vật tư; quản lý đảng viên; quản lý bảo hiểm xã hội...)…

Truyền thống 65 năm

Mỏ than Mạo Khê là mỏ hầm lò, quá trình khai thác liên tục 65 năm (chỉ tính riêng thời gian tiếp quản) với tổng sản lượng than khai thác gần 60 triệu tấn. Tài nguyên ở các mức “nông” đã hết. Hiện Công ty đang khai thác ở các mức: -150/-80; -80/-25 và phần tài nguyên của Vỉa 10 Cánh Bắc từ mức -150 lên lộ vỉa (thuộc dự án duy trì có công suất 1,6 triệu tấn/năm).

Năm 2019, Công ty được TKV giao sản xuất 1.720.000 tấn. Với sản lượng hàng năm nêu trên, việc duy trì sản xuất ở khu vực này chỉ còn vài năm nữa là nguồn tài nguyên sẽ cạn kiệt. Để gối đầu cho dự án 1,6 triệu tấn sắp kết thúc, Công ty được Tập đoàn giao triển khai dự án “Khai thác hầm lò dưới mức -150 - Mỏ Mạo Khê”. Ngày 19/11/2014, Dự án đã được khởi công.

Truyền thống 65 năm Than Mạo Khê
Truyền thống 65 năm Than Mạo Khê càng được phát huy lên tầm cao mới nhờ chủ động thực hiện “3 hóa” theo chủ trương của TKV

Dự án có trữ lượng than nguyên khai khoảng 59 triệu tấn, công suất mỏ 2 triệu tấn/năm, tuổi mỏ là 32 năm. Toàn bộ dự án được chia làm 3 tầng khai thác: -230/-150, -315/-230 và -400/-315, tổng mét đào lò xây dựng cơ bản: 22.004m, tổng mức đầu tư trên 5.800 tỷ đồng.

Cho đến thời điểm hiện tại, khối lượng đào lò XDCB của hai giếng đứng từ mức +26/-400 và các đường lò khai thông chuẩn bị mức -230 khu Tây Bắc I và Tây Bắc II  thực hiện được  trên 12.000 m. Công ty đang tiếp tục đào lò XDCB theo tiến độ Dự án. Dự kiến năm 2021 sẽ ra than.

Chuẩn bị sẵn sàng diện sản xuất cho hiện tại và các năm tiếp theo là truyền thống 65 năm qua của Than Mạo Khê; được lãnh đạo Công ty qua các thời kỳ luôn đặc biệt coi trọng. Khi than lộ vỉa và các mức dương đã cạn kiệt, Mạo Khê đã chuẩn bị diện khai thác ở các mức -25 (năm 1988), khôi phục và đưa vào khai thác mức -80 ( năm 2002), hiện nay đang khai thác mức -150 đồng thời thi công dự án xuống  mức -400 để chuẩn bị khai thác cho những năm tiếp theo.

Truyền thống này qua 65 năm nay càng được phát huy lên tầm cao mới nhờ chủ động thực hiện “3 hóa” theo chủ trương của TKV.

 

Thúy Hà