TÓM TẮT:

Chính phủ luôn giữ vai trò hết sức quan trọng, quyết định, đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và nền kinh tế số nói riêng của các quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, việc chuyển đổi nhanh sang nền kinh tế số, hướng đến việc xây dựng thành công quốc gia số là một trong những mục tiêu quan trọng của các quốc gia trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt. Sự thành công này một phần quyết định quan trọng, đi trước bởi sự chuyển đổi thành công của Chính phủ điện tử sang Chính phủ số. Bài nghiên cứu đặt vấn đề về quá trình chuyển đổi này.

Từ khóa: Chính phủ, Chính phủ điện tử, Chính phủ số, kinh tế số, hội nhập quốc tế.

1. Vai trò của Chính phủ điện tử với phát triển kinh tế số ở Việt Nam

Hiện nay giới chuyên môn vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về Chính phủ điện tử (e-government), nhưng nhìn chung loại hình này có một số đặc điểm như: Chính phủ điện tử là Chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để tự động hóa và triển khai các thủ tục hành chính (TTHC), cho phép công dân truy cập các TTHC thông qua các phương tiện điện tử như internet, điện thoại di động, truyền hình tương tác. Chính phủ làm việc với người dân 24/24 giờ, 7 ngày/tuần, người dân có thể thụ hưởng dịch vụ công dù họ ở bất cứ đâu. Ngoài ra, Chính phủ điện tử cho phép xử lý các thủ tục nhanh gọn, đơn giản hơn rất nhiều. Thông tin được cung cấp cho người dân qua Chính phủ điện tử chính xác và dễ dàng, người dân cũng đỡ mất nhiều chi phí để thu thập các thông tin này.

Chính phủ điện tử cũng có thể được hiểu là ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông để các cơ quan Chính phủ hoạt động hiệu lực, hiệu quả và minh bạch, cung cấp thông tin, dịch vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp và các tổ chức; đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền dân chủ trong việc tham gia quản lý nhà nước. Tuy nhiên, Chính phủ điện tử không đơn thuần là máy tính, mạng internet mà là sự đổi mới toàn diện các quan hệ, nguồn lực, quy trình, phương thức và nội dung hoạt động của chính quyền trung ương và địa phương.

Ngày nay, công cuộc toàn cầu hóa đang kéo các quốc gia trên thế giới lại gần nhau hơn, nhưng cùng với đó tính cạnh tranh cũng cao hơn. Trong bối cảnh đó, các chính phủ phải tìm cách giúp đỡ công dân và doanh nghiệp cạnh tranh trong quá trình hội nhập và phát triển nền kinh tế số. Nếu vẫn tồn tại dưới hình thức truyền thống, Chính phủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện vai trò của mình. Việc Chính phủ điện tử ra đời được xem là giải pháp tất yếu, hỗ trợ tích cực cho quá trình phát triển kinh tế số trong bối cảnh hội nhập và cách mạng công nghiệp 4.0. Vai trò của Chính phủ điện tử đối với phát triển kinh tế số tại Việt Nam được thể hiện rõ ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, tạo môi trường pháp lý minh bạch cho quá trình phát triển kinh tế số.

Trong những năm gần đây, nhờ ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong xây dựng Chính phủ điện tử, các văn bản, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội nói chung và phát triển kinh tế số nói riêng đã được cập nhật, ban hành kịp thời, nhanh chóng, góp phần vào hiệu quả tổ chức và triển khai trên thực tiễn. Đây là bước chuyển biến tích cực, hiệu quả rõ rệt so với các hình thức soạn thảo, ban hành và phổ biến pháp luật, chính sách theo các phương thức truyền thống trước đây.

  Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp công nghệ, với các Bộ, ban, ngành và địa phương, hiện nay hệ thống trục liên thông văn bản quốc gia đã được triển khai hiệu quả. Trục liên thông văn bản quốc gia là nền tảng cốt lõi, bảo đảm xây dựng thành công Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, xã hội số và nền kinh tế số; hướng tới phục vụ tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Hiện đã có 95/95 cơ quan ở Trung ương và địa phương (gồm Văn phòng Trung ương Đảng; các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) đã hoàn thành kết nối các hệ thống quản lý văn bản và điều hành trên Trục liên thông văn bản quốc gia. Các phần mềm quản lý văn bản của các Bộ, ngành, địa phương đã được kết nối, liên thông cả theo chiều dọc và chiều ngang một cách thông suốt và có tính hệ thống, văn bản điện tử được gửi, nhận nhanh chóng, an toàn giữa các cơ quan nhà nước.

Theo đánh giá của Văn phòng Chính phủ, trục liên thông văn bản quốc gia giúp Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương rút ngắn thời gian gửi, nhận văn bản từ 3 ngày xuống còn 3 phút; tiết kiệm 1.200 tỷ đồng chi phí; hàng chục triệu giờ công so với việc gửi văn bản thủ công trước đây. Đồng thời, góp phần thay đổi tác phong làm việc và đổi mới phương thức phục vụ của cán bộ công chức[1].

Cũng nhờ ứng dụng công nghệ thông tin trong chính phủ điện tử, hoạt động quản lý ban hành và phổ biến pháp luật chính sách nói chung và các chủ trương, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế số nói riêng được triển khai kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả và được cộng đồng doanh nghiệp, người dân hưởng ứng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, xét về nội dung chính sách phát triển kinh tế số, khách quan nhìn nhận có thể thấy rằng, các chính sách và cơ chế quản lý chưa theo kip sự phát triển của các mô hình kinh doanh mới, nhất là các mô hình dựa trên công nghệ số. Kinh tế số có đặc thù là dựa trên nền tảng công nghệ, nền tảng Internet với tốc độ phát triển và thay đổi vô cùng nhanh chóng. Trong khi đó, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hành vi trong xã hội lại cần thời gian để nghiệm chứng nên không thể theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ. Do đó, hoàn thiện, liên thông hệ thống chính sách, phát luật về kinh tế số là rất quan trọng nhằm tạo môi trường thông thoáng, có tính khuyến khích cho việc sáng tạo, ứng dụng các công nghệ mới vào hoạt động kinh doanh - thương mại. Đồng thời, vẫn cần có sự theo dõi giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước để ngăn chặn các hình thức biến tướng của công nghệ có thể gây hại cho môi trường kinh doanh cũng như lợi ích cộng đồng.

Thứ hai, hỗ trợ đẩy nhanh quá trình xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin, nền tảng của cho phát triển nền kinh tế số.

Quá trình xây dựng chính phủ điện tử cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước tăng cường đầu tư về các yếu tố liên quan đến hạ tầng công nghệ, kỹ thuật. Điều này không chỉ trực tiếp xây dựng chính phủ điện tử mà còn góp phần tạo dựng các điều kiện thuận lợi để triển khai đồng bộ hạ tầng kỹ thuật cho nền kinh tế số. Trong những năm gần đây, Chính phủ đã triển khai nhiều giải pháp nhằm hỗ trợ và xây dựng hạ tầng kỹ thuật công nghệ trên nhiều phương diện như hạ tầng viễn thông, internet; hạ tầng thanh toán (digital payment); hạ tầng chuyển phát nhanh; và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, nhìn chung vẫn còn những hạn chế và chưa được như kỳ vọng, cụ thể:

  • Về hạ tầng viễn thông, internet: Mặc dù có lợi thế tỷ lệ dùng internet, điện thoại, điện thoại thông minh khá cao, tuy nhiên, để phát triển kinh tế số đồng bộ khắp cả nước, hạ tầng viễn thông, internet của Việt Nam cũng vẫn còn bộc lộ một số điểm yếu như: Tỷ lệ dân thành thị còn thấp 35%, độ phủ sóng mạng 4G rất thấp so với khu vực, chỉ 3%. Cần phát triển mạnh độ phủ sóng mạng 3G/4G, cũng như mạng băng rộng di động mặt đất. Ngoài ra, chi phí cho băng rộng di động còn rất cao, nằm trong top cuối của các nước. 
  • Về hạ tầng thanh toán (digital payment): Đây là một trong những hạn chế lớn trong phát triển kinh tế số hiện nay. Tỷ lệ thanh toán điện tử tại Việt Nam còn rất thấp, tỷ lệ người dân có tài khoản ngân hàng là 40%. Tuy nhiên, trong đó chỉ có 22% các tài khoản là hoạt động, khoảng 15% người dùng có ví điện tử, và chỉ dưới 5% dùng tài khoản để trả các phí dịch vụ, tỷ lệ thanh toán online cũng chỉ chiếm khoảng 10%, gần 90% phương thức thanh toán khi mua hàng điện tử vẫn là hình thức thanh toán tiền mặt khi nhận hàng.
  • Về hạ tầng chuyển phát (Fulfilment of last mile delivery): Thương mại điện tử phát triển dẫn đến nhu cầu cao về dịch vụ chuyển phát, đặc biệt chuyển phát cần nhanh và chi phí thấp. Ngoài ra, logistics cũng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế số, quy trình cung ứng hàng hóa cần phát triển đáp ứng mức độ tự động hóa của các dây chuyền. Tuy nhiên, giống như các nước Đông Nam Á hiện nay, hạ tầng vận chuyển chặng cuối cũng như hạ tầng logistics nói chung của Việt Nam vẫn còn chưa phát triển mạnh. Theo khảo sát của UPU (2017), chỉ số phát triển dịch vụ vận chuyển (2IPD) của Việt Nam còn thấp, chiếm khoảng 47.8% (trong khi trung bình khu vực ĐNA là 38.9%, trung bình các nước phát triển là 67.8%). Trong đó, hạ tầng, chất lượng vận chuyển, thời gian vận chuyển, thủ tục thông quan, chi phí, các dịch vụ theo dõi đơn hàng và truy vết vẫn chưa thực sự phát triển đồng bộ và còn bộc lộ nhiều hạn chế. Theo khảo sát của Cục Thương mại điện tử và Kỹ thuật số năm 2017, 40% khách hàng mua hàng trực tuyến chưa hài lòng về việc vận chuyển, giao hàng[2].

Thứ ba, đổi mới, nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực số, chuẩn bị sẵn sàng nền kinh tế số.

Mỗi một nền kinh tế đòi hỏi cần phải có một lực lượng sản xuất tương ứng về trình độ của nó, đặc biệt là nguồn nhân lực. Vì vậy, tương ứng với nền kinh tế số phải có nguồn nhân lực số để triển khai, tổ chức thực hiện và vận hành nó. Cho nên, có thể hiểu, nguồn nhân lực số là tổng thể số lượng, chất lượng con người với tổng hòa các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức - tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và nền kinh tế số đang và sẽ cần để huy động vào quá trình lao động, sáng tạo. Để xây dựng được nguồn nhân lực số, vai trò của Chính phủ điện tử là hết sức quan trọng. Bởi lẽ, Chính phủ đóng vai trò dẫn dắt, tạo cơ chế, môi trường thúc đẩy hoạt động chuyển đổi số của toàn xã hội, làm xuất hiện xã hội số.

Bản chất của nền kinh tế số là nền kinh tế dựa trên ứng dụng các công nghệ số, nền kinh tế phát triển dựa trên nền tảng tri thức, ở đó vai trò của tri thức được coi là tài nguyên cho sự phát triển của nền kinh tế. Điều đó đòi hỏi nguồn nhân lực số phải là nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, chắc về chuyên môn, vững về đạo đức, có năng lực làm chủ công nghệ, có tính sáng tạo và đặc biệt là phải có năng lực làm chủ các thiết bị công nghệ số trong quá trình tương tác của các hoạt động kinh tế.

Theo Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam, trong lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông, Việt Nam hiện có gần 900.000 lao động, trong đó có một số lượng lớn kỹ sư về AI (trí tuệ nhân tạo), IoT (Internet kế nối vạn vật) khoa học dữ liệu, số người được cấp chứng chỉ lớn[3]. Tuy nhiên, theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) những năm gần đây, dù có những cải thiện nhưng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn xếp hạng thấp đến trung bình khá về chất lượng, nhất là lao động chuyên môn cao và năng lực sáng tạo trong nền kinh tế số khi so sánh với thế giới. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tay nghề chỉ đạt 60%, vẫn còn có khoảng cách xa so với yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0 và chuyển đổi số. Sự thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ thông tin về cả số lượng và chất lượng được xem là một trong những mối thách thức lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế số tại Việt Nam.

Trong khi đó, nhiều nghiên cứu gần đây cũng cho thấy, gần 1/3 số nghề mới hiện nay không tồn tại cách đây 1/4 thế kỷ, và sau 1/4 thế kỷ nữa sẽ có 60% số nghề chưa xuất hiện bây giờ. Vì vậy, cùng với việc thay đổi chương trình đào tạo theo kịp các xu thế công nghệ mới, đẩy nhanh việc xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin bằng việc tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên sớm tiếp cận lĩnh vực này thì cũng rất cần thay đổi giáo dục theo hướng tăng tính tự học, tự cập nhật và học suốt đời. Do vậy, Chính phủ Việt Nam cần quan tâm đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực số để chuẩn bị và kịp thời thích ứng với quá trình chuyển đổi nền kinh tế số. Theo đó, chương trình đào tạo nhân lực CNTT cần hướng đến đẩy nhanh xã hội hóa, giáo dục công nghệ thông tin, đặc biệt là cập nhật giáo trình đào tạo CNTT gắn với các xu thế công nghệ mới như internet kết nối vạn vật (IoT), AI, công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên tiếp cận lĩnh vực này càng sớm càng tốt, đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa các trường và khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng CNTT.

Thứ tư, đẩy nhanh việc số hoá các thủ tục hành chính, cung cấp các dịch vụ công, đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường số giữa Chính phủ với các doanh nghiệp.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, các doanh nghiệp trong nền kinh tế cũng đang tự tổ chức lại để trở thành các doanh nghiệp điện tử, nhằm thu lợi nhuận tối đa. Thông qua việc áp dụng CNTT và viễn thông, các doanh nghiệp này có thể giảm chi phí giá thành và tăng chất lượng dịch vụ, từ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn. Do đó, nếu Chính phủ - nơi cung cấp dịch vụ - vẫn sử dụng các phương tiện truyền thống thì sẽ gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ khu vực tư nhân. Nhận thức rõ điều đó, trong những năm gần đây, Chính phủ điện tử ở Việt Nam cũng đã có những đổi mới theo hướng cung cấp ngày càng nhiều hơn các dịch vụ công trực tuyến một cách nhanh chóng, tiện lợi.

Trong năm 2019, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến cấp độ 4 đã tăng gấp đôi. Tất cả các Bộ, ngành, địa phương đã kết nối với trục liên thông văn bản quốc gia, 86,5% số văn bản điện tử trao đổi qua mạng, tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm,… Đáng chú ý, từ thời điểm Thủ tướng Chính phủ nhấn nút khai trương (ngày 09/12/2019) đến nay, đã có 09 trong số 22 Bộ, cơ quan và tất cả các tỉnh, thành phố kết nối, tích hợp với Cổng Dịch vụ công quốc gia (DVCQG) tại địa chỉ https://dichvucong.gov.vn[4]. Tính đến tháng 7/2020, Cổng DVCQG đã có 8 nhóm dịch vụ công, tích hợp, cung cấp 750 dịch vụ công trực tuyến, trong đó 359 dịch vụ công dành cho người dân, 414 dịch vụ công dành cho doanh nghiệp; hơn 49,6 triệu lượt truy cập, hơn 11,2 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái, hơn 189.000 tài khoản đăng ký, trong đó trên 186.000 tài khoản của nhân dân, hơn 176.000 hồ sơ thực hiện trực tuyến từ Cổng, tiếp nhận, xử lý hơn 6.900 phản ánh, kiến nghị và hỗ trợ, giải đáp hơn 16.600 cuộc gọi[5].

Hiện tại, 63/63 tỉnh, thành phố và 19/30 Bộ, ngành đã công khai tiến độ xử lý hồ sơ trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ[6]. Văn phòng Chính phủ cũng công khai việc xử lý văn bản của lãnh đạo Văn phòng Chính phủ, lãnh đạo Chính phủ. Về cung cấp dịch vụ công trực tuyến, trong tổng số 83 dịch vụ công trực tuyến giao cho 20 Bộ, ngành, đến nay, các Bộ, ngành đã triển khai thực hiện 78/83 dịch vụ công trực tuyến; trong tổng số 44 dịch vụ công trực tuyến giao cho các địa phương, đến nay có 32/63 địa phương đã triển khai thực hiện…[7] Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế nhất định: Theo khảo sát, 31% doanh nghiệp cho biết thường xuyên tra cứu thông tin trên website của các cơ quan nhà nước năm 2018 (tăng 1% so với năm trước), 62% doanh nghiệp thỉnh thoảng mới tra cứu và đặc biệt vẫn còn tới 7% doanh nghiệp chưa bao giờ tra cứu các thông tin này. Nhìn chung, các tỷ lệ này trong vài năm trở lại đây chưa có sự thay đổi lớn, điều đó phản ánh tính hiệu quả cũng như nhận thức về mức độ tiếp cận đối với hệ thống thông tin của các cơ quan nhà nước trong doanh nghiệp còn chưa thực sự tốt. Nhóm doanh nghiệp lớn vẫn luôn luôn có mức quan tâm tới thông tin trên website của các cơ quan nhà nước hơn so với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ: 44% doanh nghiệp lớn có quan tâm tới các thông tin này, trong khi đó tỷ lệ ở doanh nghiệp vừa và nhỏ mới chỉ đạt 29%[8].

2. Phát huy hiệu quả quản lý, điều hành của Chính phủ điện tử đối với quá trình xây dựng nền kinh tế số

Một là, hoàn thiện cơ sở pháp lý về Chính phủ điện tử và kinh tế số.

Trước mắt, cần sớm ban hành các nghị định về chia sẻ dữ liệu; bảo vệ dữ liệu cá nhân; xác thực điện tử; bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân; chế độ báo cáo giữa các cơ quan hành chính nhà nước. Khẩn trương ban hành Nghị định về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với đặc thù của lĩnh vực này, thay thế Nghị định số 102/2009/NĐ-CP về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước và Quyết định số 80/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thuê dịch vụ công nghệ thông tin. Trong thời gian tới, cần nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật Chính phủ điện tử và các văn bản hướng dẫn, bảo đảm hành lang pháp lý phát triển Chính phủ điện tử dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ mới hướng tới nền kinh tế số, xã hội số.

Cùng với đó, hoàn thiện thể chế, xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, tạo thuận lợi cho đổi mới sáng tạo. Theo đó, các chính sách và quy định này cần bao quát về quản lý các luồng dữ liệu xuyên quốc gia, bảo mật dữ liệu, an ninh mạng, bảo vệ khách hàng, giao dịch điện tử và pháp luật về thương mại điện tử và thuế. Hiện tại, hệ thống thể chế, chính sách cũng như các thiết chế thực thi, giải quyết tranh chấp và hiệu lực của cơ quan thực thi liên quan đến phát triển kinh tế số còn yếu, chưa đồng bộ và hiệu quả nên chưa khai thác hết tiềm năng để phát triển kinh tế số. Thói quen giao dịch, thanh toán dùng tiền mặt, trả tiền khi nhận hàng của đa số người tiêu dùng là trở ngại lớn, làm tăng chi phí cho cả xã hội, doanh nghiệp và người dân. Nhận thức của người dân về kinh tế số còn hạn chế, kỹ năng sử dụng internet an toàn thấp và chưa theo kịp với tốc độ phát triển của công nghệ. Do vậy, cần hoàn thiện thể chế, chính sách về kinh tế số nhằm tạo điều kiện và môi trường thuận lợi, minh bạch cho các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế số.

Hai là, đẩy nhanh tiến độ xây dựng và hoàn thiện Chính phủ điện tử làm cơ sở để thúc đẩy sự phát triển kinh tế số.

Trước mắt, cần sớm ban hành các nghị định về chia sẻ dữ liệu; xác thực điện tử; bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm quyền riêng tư của cá nhân; chế độ báo cáo giữa các cơ quan hành chính nhà nước. Khẩn trương ban hành Nghị định về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với đặc thù của lĩnh vực này, thay thế Nghị định số 102/2009/NĐ-CP về đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước và Quyết định số 80/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thuê dịch vụ công nghệ thông tin. Trong thời gian tới cần nghiên cứu, đề xuất xây dựng Luật Chính phủ điện tử và các văn bản hướng dẫn, bảo đảm hành lang pháp lý phát triển Chính phủ điện tử dựa trên dữ liệu mở, ứng dụng các công nghệ mới hướng tới nền kinh tế số, xã hội số.

Cùng với đó, cần tập trung hoàn thiện xây dựng các cơ sở dữ liệu nền tảng quốc gia, đặc biệt là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai,… để đảm bảo dữ liệu, thông tin được thống nhất, thông suốt giữa Chính phủ và chính quyền các cấp. Đồng thời, thiết lập các hệ thống ứng dụng phục vụ người dân, doanh nghiệp và phục vụ quản lý điều hành của Chính phủ.

Cùng với đó, Nhà nước cần tăng cường đầu tư nâng cấp hạ tầng số. Chính phủ và các doanh nghiệp cần khẩn trương chuẩn bị các phương án triển khai dịch vụ 5G để có thể theo kịp xu hướng thế giới khi nửa đầu năm 2019 sẽ có điện thoại thông minh tích hợp 5G với tốc độ cao gấp nhiều lần mạng 4G hiện nay. Công nghệ 5G sẽ tạo cơ sở hạ tầng tốt cho việc kết nối theo xu hướng Internet kết nối vạn vật, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Ba là, hoàn thiện các hình thức giao dịch điện tử giữa Chính phủ và doanh nghiệp.

Theo đó, cần tập trung hoàn thiện xây dựng các cơ sở dữ liệu nền tảng quốc gia, đặc biệt là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai,… để đảm bảo dữ liệu, thông tin được thống nhất, thông suốt giữa Chính phủ và chính quyền các cấp. Đồng thời, thiết lập các hệ thống ứng dụng phục vụ người dân, doanh nghiệp và phục vụ quản lý điều hành của Chính phủ.

Hiện tại, Cổng Dịch vụ công Quốc gia vận hành chính thức tại địa chỉ dichvucong.gov.vn. Những nước thành công trong xây dựng Chính phủ điện tử đều coi Cổng dịch vụ công là một trong những hệ thống trụ cột được chú trọng xây dựng và liên tục nâng cấp để hướng tới sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây mới chỉ là thành công bước đầu. Mục tiêu là cần cung cấp ở cấp độ 4 sớm nhất và mở rộng sang các dịch vụ khác, nhất là những dịch vụ được đông đảo người dân sử dụng. Đây là công việc thường xuyên, liên tục không có điểm dừng, với mục tiêu xuyên suốt là lấy sự hài lòng của người dân, tổ chức là thước đo chất lượng cung cấp dịch vụ công của các cơ quan hành chính Nhà nước, tổ chức cung cấp dịch vụ công. Quá trình thực hiện xử lý các thủ tục hành chính cần sự liên thông giữa các đơn vị trong nội bộ, giữa các cơ quan liên Bộ, ngành, để có thể tiếp tục đơn giản hóa cải cách thủ tục hành chính thì các thông tin liên quan đến người dân, doanh nghiệp phải được chia sẻ giữa nội bộ của các cơ quan nhà nước.

Cùng với đó, các cơ quan nhà nước cần tăng cường truyền thông và quảng bá hiệu quả về dịch vụ công trực tuyến của cơ quan để người dân, doanh nghiệp hiểu rõ hơn về lợi ích mang lại từ việc sử dụng dịch vụ. Chú trọng đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng thụ hưởng. Việc triển khai công tác tuyên truyền DVCTT phải được thực hiện đồng bộ theo một chương trình tuyên truyền về cải cách hành chính nói chung. Về nội dung tuyên truyền: Triển khai xây dựng tài liệu giới thiệu dịch vụ, nêu bật được các lợi ích người dân, doanh nghiệp được thụ hưởng; tài liệu hướng dẫn cần được thể hiện dưới dạng các hình thức hình ảnh minh họa hướng dẫn, video hướng dẫn thực hiện cụ thể một DVHCCTT đăng tải trên Trang thông tin điện tử; thiết kế các tài liệu hướng dẫn theo từng bước thực hiện dịch vụ dưới dạng tờ gấp để cung cấp cho người dùng tại bộ phận một cửa. Từ đó, thay đổi thói quen của công dân trong việc sử dụng dịch vụ công thông qua Trung tâm hành chính công, để cung cấp cho người dân, doanh nghiệp những thông tin trực tuyến, dần dần từ bỏ phương thức liên hệ kiểu cũ với cơ quan nhà nước.

Bốn là, tăng cường đào tạo và phát triển nguồn nhân lực số đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử và nền kinh tế số.

Xây dựng Chính phủ điện tử và phát triển kinh tế số, xét cho cùng, đều cần chú trọng đào tao và phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Cán bộ, công chức nhà nước của Chính phủ điện tử và nhân lực tại các doanh nghiệp và mọi công dân đều cần thiết phải được trang bị các kiến thức và kỹ năng về công nghệ thông tin, để có thể tham gia được vào các giao dịch và quan hệ xã hội cuả thời đại công nghệ số. Với vai trò dẫn dắt xã hội, Nhà nước cần quan tâm chú trọng đào tạo nguồn nhân lực để hình thành đội ngũ chuyên ngành thương mại điện tử, an ninh mạng, công nghệ thông tin, truyền thông,... nhằm chuẩn bị cho quá trình chuyển đổi sản xuất và việc làm trên môi trường internet. Đây cũng là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của Chính phủ điện tử và nền kinh tế số.

Để thực hiện được điều này, cần gắn chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo với chiến lược phát triển nguồn nhân lực và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trên cả hai phương diện vĩ mô và vi mô. Có như vậy mới tạo ra sự hòa nhập giữa cung nhân lực với cầu nhân lực số của nền kinh tế, thị trường lao động cả về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nhân lực và năng lực, phẩm chất.

Với đặc trưng của nguồn nhân lực số đòi hỏi việc đào tạo nguồn nhân lực cần phải đổi mới cả mô hình và cơ cấu, thay đổi tư duy từ chỉ cần học một lần để làm việc suốt đời sang học suốt đời mới đủ khả năng làm việc suốt đời. Về cơ cấu đào tạo ngành nghề được điều chỉnh và thay đổi trên cơ sở yêu cầu của nền kinh tế số, trong đó chú trọng đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin. Chương trình đào tạo nhân lực công nghệ thông tin cần hướng đến đẩy nhanh xã hội hóa giáo dục công nghệ thông tin, đặc biệt là cập nhật giáo trình đào tạo gắn với các xu thế công nghệ mới như internet kết nối vạn vật (Internet of Things - IoT), AI, công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên tiếp cận lĩnh vực này từ sớm; đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa các trường và khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng công nghệ thông tin.

Chính phủ cần tạo ra chính sách điều chỉnh an sinh xã hội và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các sáng kiến về giáo dục và hạ tầng công nghệ thông tin, xây dựng các kế hoạch hành động phát triển internet kết hợp với trí tuệ nhân tạo; phát động chiến lược con người Việt Nam với công nghiệp 4.0, trong đó sử dụng con người làm cốt lõi. Với các phương hướng chính là công nghệ Big Data, nền tảng hệ thống mạng, trí tuệ nhân tạo và thực hiện đầu tư nghiên cứu các dự án khoa học trọng điểm, các đại học, trung tâm nghiên cứu phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để đưa các dự án vào ứng dụng trong thực tiễn.

Cần có chương trình truyền thông và giáo dục sâu rộng về internet để nâng cao nhận thức và kỹ năng của người dùng. Các chương trình giáo dục cần rà soát để cập nhật và giáo dục cho trẻ em về internet ngay từ trong các cấp học phổ thông.

Phát huy nội lực các trường đại học trong nước kết hợp với các viện nghiên cứu, đại học, trung tâm nghiên cứu lớn trên thế giới về nền tảng công nghệ, kỹ thuật số, nhằm xây dựng hệ thống đại học thông minh. Từ đó, từng bước hình thành các trung tâm nghiên cứu về khoa học công nghệ, kỹ thuật số hàng đầu trong khu vực và trên thế giới.

 

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

[1] Huy Thắng (2019), Đẩy mạnh số hóa quản lý điều hành theo Chính phủ điện tử trong doanh nghiệp nhà nước, http://baochinhphu.vn, ngày 09/08/2019.

[2] Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương (2020), Báo cáo Đề án phát triển kinh tế số đến năm 2025, tầm nhìn 2030.

[3] Trung Dũng (2019), Khai mạc triển lãm ICTComm Vietnam 2019, https://ictnews.vietnamnet.vn, ngày 06/6/2019.

[4] Lan Anh (2020), Đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, https://nhandan.com.vn, 22/02/2020

[5] Hoàng Giang (2020), Mong người dân hiểu được lợi ích to lớn của Cổng Dịch vụ công quốc gia, ngày http://baochinhphu.vn, ngày 10/07/2020

[6] Hoàng Anh (2020), Phát triển chính phủ điện tử trong cách mạng công nghiệp lần thứ 4, http://egov.chinhphu.vn.

[7] Hoàng Anh (2020), Phát triển chính phủ điện tử trong cách mạng công nghiệp lần thứ 4, http://egov.chinhphu.vn.

[8] Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử năm 2019.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số, Bộ Công Thương (2020), Báo cáo Đề án phát triển kinh tế số đến năm 2025, tầm nhìn 2030.

   2.   Vân Anh (2020), Phát triển Chính phủ số gắn kết chặt với chuyển đổi số, xây đô thị thông minh, https://ictnews.vietnamnet.vn, ngày 07/08/2020.

  1. Trang Anh (2020), 5 xu hướng chuyển đổi kỹ thuật s, https://vnexpress.net, ngày 24/7/2020.
  2. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (2018). Phát triển nền kinh tế số nhìn từ kinh nghiệm một số nước châu Á và hàm ý đối với Việt Nam, Cổng thông tin kinh tế Việt Nam - VNEP (https://Vnep.org.vn), Hà Nội.
  3. Nguyễn Hải Hoàng (2020), Phát triển nguồn nhân lực số đáp ứng yêu cầu của kinh tế số, https://tcnn.vn, ngày 04/08/2020.
  4. Cơ quan Nghiên cứu Khoa học và Công nghiệp Khối thịnh vượng chung Úc (CSIRO) (2019), Tương lai nền kinh tế số Việt Nam hướng tới năm 2030 và 2045.
  5. Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (2019), Báo cáo chỉ số thương mại điện tử năm 2019.
  6. Bùi Thanh Tuấn (2020), Một số khó khăn, thách thức trong phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam, http://lyluanchinhtri.vn, ngày 18/4/2020.
  7. Võ Văn Lợi (2019), Phát triển nguồn nhân lực Việt Nam đáp ứng yêu cầu của cách mạng công nghiệp 4.0, http://tapchitaichinh.vn, ngày 09/02/2019.
  8. Trần Mai Hiến (2020), Kinh tế số và cơ hội để Việt Nam bứt phá, http://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/hoat-ong-cua-lanh-ao-ang-nha-nuoc/-/2018/815928/kinh-te-so-va-co-hoi-de-viet-nam-but-pha.aspx
  9. Võ Mạnh Linh (2020). Mối liên hệ giữa “Chính phủ điện tử” và “Chính phủ số”, http://cchc.mard.gov.vn, ngày 13/8/2020.
  10. Đặng Xuân Hoan, Nguyễn Quỳnh Nga (2020), Đổi mới phương thức điều hành của Chính phủ trên nền tảng ứng dụng trí tuệ nhân tạo, https://tcnn.vn/, ngày 06/04/2020.

 

THE ROLE OF E-GOVERNMENT IN THE ESTABLISHMENT

OF DIGITAL ECONOMY IN VIETNAM

Colonel General, Assoc. Prof. PhD NGUYEN VAN THANH

Member of the Central Committee of the Communist Party of Vietnam

Deputy Minister Ministry of Public Security

ABSTRACT:

The Government always plays a very important and decisive role in the socio-economic development in general and the digital economy in particular. In the context of international integration process and Industry 4.0, the rapid transition to the digital economy in order to successfully establish a digital nation is one of important goals of countries, especially when the competition becomes increasingly fierce. This success transition is an important decisive part which  precedes the successful transition of e-Government to digital government. This paper is to analyze the  transition of e-Government to digital government.

Keywords: Government, e-Government, digital government, digital economy, international integration.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ,

Số 19, tháng 8 năm 2020]