Việt Nam sẽ là đối tác tin cậy, bền vững trong chuỗi cung ứng mới của EU

Trả lời báo chí mới đây, ông Lương Hoàng Thái - Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương đã có một số chia sẻ về cơ hội mà EVFTA mang lại và nỗ lực của Việt Nam trong nắm bắt các cơ hội này, đặc biệt giữa bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang có nhiều thay đổi dưới tác động của dịch Covid-19.
luong hoang thai
Ông Lương Hoàng Thái - Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương

Thưa ông, Bộ Công Thương sẽ có tờ trình về EVFTA trong kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV tới đây. Những nội dung đáng chú ý trong tờ trình lần này là gì và sẽ mang đến những kỳ vọng gì của Bộ Công Thương khi EVFTA có hiệu lực?

Vụ trưởng Lương Hoàng Thái: Ngày 20/5, ngay ngày khai mạc kỳ họp của Quốc hội thì Quốc hội sẽ chính thức xem xét, thảo luận để tiến tới, nếu như có thể được, thông qua Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và EU. Bản báo cáo giải trình của Bộ Công Thương đã được trình Chính phủ, sau đó Chính phủ báo cáo Chủ tịch nước, Chủ tịch nước trình Quốc hội.

Trong đó có những nội dung làm sao chúng ta có thể đảm bảo thực thi có hiệu quả Hiệp định này, gồm hai phần quan trọng nhất. Một là những vấn đề về mặt pháp lý cần phải xử lý để có thể hoàn thành nghĩa vụ đặt ra trong Hiệp định. Hai là những chương trình, bước đi cụ thể mà Chính phủ sẽ thực hiện để từ đó đưa Hiệp định này vào cuộc sống.

Cụ thể, những bước đi nào tiếp theo phía Việt Nam cần phải hoàn thành để tiến tới thực thi Hiệp định này trong năm nay và thời gian tới?

Vụ trưởng Lương Hoàng Thái: Việc quyết định phê chuẩn là thuộc thẩm quyền của Quốc hội và rất mừng là Quốc hội thì ngay ngày đầu tiên trong kỳ họp sẽ xem xét và sau đó ngay buổi chiều Quốc hội sẽ tiến hành thảo luận. Theo những quy trình của Quốc hội chúng ta thì sau đó sẽ có một bước nữa là phải ban hành Nghị quyết của Quốc hội trước khi hoàn thành quá trình phê chuẩn. Sau đó thì Hiệp định quay lại con đường ngoại giao, hai bên sẽ chính thức xác nhận với nhau về thời điểm có hiệu lực và thời điểm này là ngày đầu tiên của tháng thứ 2 sau khi có văn bản phê chuẩn của Quốc hội, tức ngày Quốc hội ban hành Nghị quyết.

Hai bên có thể thảo luận những ngày khác nhưng thường xoay quanh ngày này và chúng ta đang thúc đẩy để bàn với EU sao cho đưa hiệp định vào thực thi sớm nhất. Tức là nếu như Quốc hội có Nghị quyết ban hành vào cuối tháng 5, thì sau đó hai tháng hai bên sẽ xác định ngày đưa đi vào hiệu lực.

Có thể thấy EVFTA là một trong những Hiệp định đầy tham vọng của cả hai bên. Việt Nam có thể coi là quốc gia đang phát triển đầu tiên ký kết Hiệp định hợp tác lớn như vậy với châu Âu. Kỳ vọng của các doanh nghiệp Việt Nam chắc chắn sẽ rất lớn. Những ngành hàng nào sẽ được hưởng lợi đầu tiên khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực?

Vụ trưởng Lương Hoàng Thái: Khi đàm phán chúng ta luôn nhìn hai khía cạnh. Một là, nhìn những mặt hàng cụ thể, theo đó là những mặt hàng mà chúng ta hiện nay đang gặp phải những rào cản khi đi vào thị trường EU. Dự kiến những tính toán đầu tiên Việt Nam sẽ tập trung vào những mặt hàng đó.

Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và của Ngân hàng Thế giới thì những ngành hiện nay có khả năng tận dụng sớm những cơ hội của Hiệp định này là những ngành như dệt may, da giầy và một số ngành sản xuất hàng nông sản, đặc biệt là những nông sản nhiệt đới mà chúng ta có thế mạnh, ví dụ như gạo, một số ngành thuỷ sản,…

Theo tính toán và quan sát, đặc biệt chúng ta hy vọng là Hiệp định này tập trung vào quan hệ dài hạn giữa hai bên, hy vọng nó tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi để từ đó tăng cường thúc đẩy không những là thương mại, kể cả đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo ra chuỗi cung ứng mới.

Nếu chúng ta để ý, các nước hiện nay đều đang cố gắng để đa dạng hoá chuỗi cung ứng của mình, đặc biệt với EU thì việc này đang diễn ra rất mạnh, cùng với thị trường khác như kể cả Hoa Kỳ, Nhật Bản đều có những động thái đó. Nhưng khác với những nền kinh tế lớn khác như Hoa Kỳ, thì họ có một số thị trường truyền thống để cung ứng, như Mexico ở ngay cạnh đó là đối tác thương mại rất lớn để cung cấp và có hiệp định thương mại tự do. Thì EU chưa có được. Thế nên những năm gần đây họ thúc đẩy rất mạnh. Đặc biệt bây giờ trong bối cảnh phải đối phó với những thay đổi của đại dịch Covid-19 thì xu hướng này diễn ra còn mạnh hơn.

EU, như tôi nói, họ không có một nền kinh tế nào mà gần họ, có khả năng đáp ứng nhu cầu về chuỗi cung ứng đó. Nên họ sẽ lựa chọn một số thị trường và với tư cách là một trong những nước đang phát triển đầu tiên mà chúng ta có được hiệp định thương mại tự do, thì chúng ta ở vị trí rất tốt để là một trong những nơi tiếp nhận chuỗi cung ứng đó và xây dựng chuỗi cung ứng bền vững, để từ đó có quan hệ thương mại - đầu tư, tổng thể quan hệ kinh tế cũng như quan hệ khác xây dựng ở mức cao hơn với EU.

EVFTA sẽ mang lại vị thế mới cho Việt Nam trong chuỗi cung ứng của EU
EVFTA sẽ mang lại vị thế mới cho Việt Nam trong chuỗi cung ứng của EU

Với một đối tác như Việt Nam thì chúng ta sẽ đáp ứng được nhu cầu nguồn cung cho thị trường EU như thế nào?

Vụ trưởng Lương Hoàng Thái: Cách tiếp cận của chúng ta là chúng ta không phải là một nước quá lớn, có thể đảm bảo cung cấp cho tất cả những thị trường đó. Nhưng chúng ta là một đối tác tin cậy, đủ khả năng và đủ sức cạnh tranh để cung cấp với một đối tác thương mại, tạm gọi là tương đối tin cậy và ổn định.

Tất nhiên là những đối tác lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản lựa chọn cả những đối tác khác nữa, nhưng chúng ta ở một thế rất tốt trong nhóm đối tác được lựa chọn đó. Thể hiện qua việc chúng ta cải cách nền kinh tế, thể hiện qua những chỉ số gần đây là sự cạnh tranh chúng ta, khả năng cung ứng của chúng ta với nhiều mặt hàng rất tốt, đặc biệt như vừa qua là trong đại dịch Covid-19 thì chúng ta đã là một đối tác rất tin cậy. Kể cả những mặt hàng như trang thiết bị y tế, rất nhiều nước có những hạn chế về xuất khẩu, thì chúng ta tiếp tục tỏ ra là một đối tác tin cậy trong quan hệ quốc tế đó.

Trong bối cảnh dịch bệnh thì chúng ta cũng cố gắng dỡ bỏ rất nhanh trước những nước khác đối với các rào cản đó, ví dụ như rào cản xuất khẩu các mặt hàng nông sản hay rào cản về thiết bị y tế, để đảm bảo tư cách là một đối tác đáng tin cậy trong quan hệ thương mại mới.

Chúng ta cũng đã chứng tỏ là một nhà cung cấp hàng đầu đối với nhiều mặt hàng vào thị trường EU. Trong thời gian tới, chúng ta cũng hy vọng là không chỉ ở những mặt hàng như dệt may, giày dép chúng ta đã có truyền thống xuất khẩu sang EU, mà chúng ta sẽ vươn lên ở những mặt hàng khác với hàm lượng công nghệ cao hơn để không những đáp ứng mặt hàng đơn giản mà còn những mặt hàng EU hiện nay đang có rất nhiều nhu cầu nhưng phải nhập từ nhiều nguồn khác nhau.

Nói về lợi thế cạnh tranh và lợi ích mà EVFTA mang lại cho Việt Nam, ông đánh giá thế nào về góc độ này?

Vụ trưởng Lương Hoàng Thái: Trước tiên chúng ta nhìn về tổng thể lợi ích đối với toàn bộ nền kinh tế. Theo nhiều nghiên cứu cho đến nay thì tác động tương đối thuận lợi đối với nền kinh tế chúng ta nếu như chúng ta khai thông được thị trường EU.

Đặc biệt nghiên cứu gần đây nhất của Ngân hàng Thế giới còn nhấn mạnh là khía cạnh về xoá đói, giảm nghèo cũng như khả năng mà các hộ gia đình của chúng ta vươn lên, đáp ứng ở mức tầng lớp trung lưu. Theo nghiên cứu này, nếu như lấy chuẩn xoá đói giảm nghèo ở mức cao của Ngân hàng Thế giới, thì có khoảng 800.000 người Việt Nam có thể sẽ thoát nghèo nhanh hơn so với kịch bản không có EVFTA. Tức là, Hiệp định này sẽ giúp khoảng 800.000 người vượt được ngưỡng đói nghèo đó.

Đặc biệt, góp phần đưa một số lượng lớn hộ gia đình chúng ta có thể vươn lên, không phải chỉ làm những mặt hàng đơn giản nữa, mà hy vọng với những góc độ cải cách như khả năng tiếp cận thị trường, thì chúng ta có thể học hỏi để vươn lên trong chuỗi cung ứng, và từ đó các hộ gia đình chúng ta được hưởng lợi để có được mức thu nhập tốt hơn.

Về tăng trưởng kinh tế, theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong vòng 5 năm tới, Hiệp định này có thể góp phần cho nền kinh tế tăng thêm khoảng từ 2,2 đến 3,2%, tức xung quanh khoảng 0,5 điểm phần trăm GDP mỗi năm. Đây là tác động tương đối lớn, lớn hơn nhiều so với tất cả những hiệp định thương mại tự do trước đây chúng ta đã tham gia. Kể cả hiệp định trước đây Quốc hội đã phê chuẩn là CPTPP thì lợi ích nó mang lại cũng đáng kể, nhưng so với Hiệp định Thương mại Tự do với EU thì nó vẫn nhỏ hơn.

Rõ ràng là cơ hội tạo ra như vậy, nhưng một điểm mà tất cả mọi người đều nhắc đến là để mà những con số đó trở thành hiện thực thì quyết tâm về cải cách để thực thi Hiệp định sao cho hiệu quả, chủ động của chúng ta mang ý nghĩa hết sức đã quyết định.

Đặc biệt, bây giờ chúng ta đều thấy hoàn cảnh thế giới đã thay đổi rất nhiều, rất nhanh so với giai đoạn trước đây, càng đòi hỏi tất cả các cơ quan chúng ta phải có cách tiếp cận mới, thay đổi phù hợp hoàn cảnh thì mới có thể tận dụng được những cơ hội mà những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định với EU mang lại.

Trong bối cảnh Covid-19, phải chăng các nước cũng dần nghĩ rằng nội lực của mỗi quốc gia sẽ có vai trò quan trọng hơn trong đáp ứng nhu cầu của chính mình khi mà kết nối cung ứng toàn cầu đứt gãy? Ông đánh giá thế nào về xu hướng này, liệu những hiệp định như EVFTA có còn giữ được giá trị và vị thế của nó trong bối cảnh này hay không?

Vụ trưởng Lương Hoàng Thái: Không phải là đại dịch thì người ta mới đặt vấn đề nội lực, mà trước đến giờ mọi người vẫn nghĩ nội lực là yếu tố quyết định, ở bất kỳ nước nào cũng thế, cả ở EU hay bản thân chúng ta hay bất kỳ nước nào khác đều như vậy. Nhưng để tận dụng được nội lực đó thì yếu tố hết sức quan trọng là chúng ta tận dụng được những cơ hội ngoại lực, làm sao cho chúng ta có thể tận dụng những điểm bổ sung lẫn nhau trong nền kinh tế.

Hiện nay thì không thể một nền kinh tế nào có thể đứng độc lập và xu thế hiện nay thúc đẩy việc thiết kế lại những chuỗi cung ứng đó, chứ không thể chấm dứt hoàn toàn việc các nước phải phụ thuộc lẫn nhau.

Đây là một xu thế mà không thể đảo lộn được, tức là không thể có một quốc gia nào thành công nếu chỉ đứng một mình, nếu không hợp tác và trong bối cảnh đó thì rõ ràng là chuỗi cung ứng có thể thay đổi, nhưng những đối tác nào có thể đi đầu trong việc xây dựng mới, như tôi đã nói, mang tính đảm bảo, tin cậy lẫn nhau và cùng có lợi giữa các nước thì chuỗi cung ứng đó sẽ đem lại lợi ích cho tất cả các bên. Và tôi nghĩ chuỗi cung ứng đó sẽ tiếp tục được xây dựng.

Thy Thảo (ghi)