Xây dựng chuỗi cung ứng ở địa bàn đặc biệt khó khăn

Giải quyết bài toán lợi thế về quy mô thị trường thông qua hình thành chuỗi cung ứng cũng phản ánh quan điểm về xây dựng thể chế. Theo đó, doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt triển khai, trong khi nhà nước đóng vai trò quản lý, thiết lập hạ tầng và tạo môi trường thuận lợi.
chuỗi cung ứng

Khó xây chuỗi cung ứng

Chuỗi cung ứng ở miền núi, vùng sâu, vùng xa thường rất khó thành lập do doanh nghiệp thường dè dặt đầu tư vào sản xuất hay kinh doanh. Cái khó dễ thấy nhất là ở những địa bàn khó khăn, nguồn lao động tại chỗ trình độ thấp, hạ tầng cơ sở kém phát triển, địa hình chia cắt khiến chi phí vận chuyển cao. Tuy nhiên, rào cản lớn nhất đối với doanh nghiệp chính là quy mô thị trường nhỏ, sức mua thấp. Do đó, việc đầu tư vào một thị trường nhỏ bé để sinh lờì được cho mạo hiểm, có tính rủi ro cao.

Ở góc nhìn của quản lý nhà nước, Chính phủ nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo.

Kết quả là năm 2015, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2015 - 2020. Tiếp nối cho giai đoạn 2015-2020, Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021-2025 là chương trình đặc thù, hết sức cần thiết nhằm xây dựng và phát triển hệ thống phân phối sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, thu hẹp khoảng cách về phát triển thương mại của khu vực này với các vùng miền khác, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thu nhập của người dân, đảm bảo an ninh quốc phòng tại khu vực này.

Mục tiêu cụ thể của Chương trình đặt ra đến năm 2025: Đưa tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ở địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo đạt mức tăng trưởng 9% - 11% hàng năm; Phát triển các sản phẩm, hàng hóa có thương hiệu là đặc trưng, đặc sản, tiềm năng, lợi thế của khu vực; Khuyến khích, phát triển thương nhân, doanh nghiệp có năng lực thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động thương mại tại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo, mỗi năm tăng trung bình 8% - 10% trong giai đoạn 2021 -2025.

Mặc dù các chương trình hỗ trợ có tiền từ ngân sách nhà nước, nhưng nhà nước không làm thay mà thông qua doanh nghiệp để phát triển thương mại. Làm sao thuyết phục được doanh nghiệp kinh doanh ở 287 huyện có điều kiện khó khăn và đặc biệt khó khăn, hầu như không có lợi thế về quy mô thị trường? Nếu doanh nghiệp không bị hấp dẫn bởi lợi thế về quy mô thị trường, thì tiền của nhà nước vẫn tiêu, mà mục tiêu phát triển thương mại ở địa bàn khó khăn không đạt được.

Hấp dẫn doanh nghiệp

Để thuyết phục dược doanh nghiệp, hộ nông dân, ngày 2 tháng 8 năm 2023, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 1970/QĐ-BCT Phê duyệt Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm 2024 của Bộ Công Thương thuộc Chương trình phát triển thương mại miền núi, vùng sâu, vùng xa và hải đảo giai đoạn 2021-2025. Trong đó, tập trung vào các nhiệm vụ, đề án nhằm hình thành chuỗi cung ứng, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ở địa bàn miền núi.

Đó là các nhiệm vụ đề án: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách về phát triển thương mại khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới; xây dựng mô hình phát triển các mặt hàng tiềm năng, lợi thế của khu vực miền núi; phát triển đội ngũ thương nhân, doanh nghiệp; xây dựng và phát triển hệ thống dịch vụ hỗ trợ thương mại miền núi; phát triển năng lực chuyên môn cho cán bộ, công chức, doanh nghiệp, thương nhân làm công tác quản lý, phát triển thương mại miền núi, v.v…

Cái hấp dẫn doanh nghiệp ở đây, cái làm cho chính sách “Khuyến khích phát triển thương nhân, các loại hình doanh nghiệp hoạt động thương mại tại miền núi, vùng sâu, vùng xa” thành công chính là tạo ra sự kết nối để hình thành nên chuỗi cung ứng. Từ đó, tạo ra thị trường rộng lớn qua các hệ thống phân phối ở những đô thị lớn và thị trường xuất khẩu.

Lợi thế về quy mô thị trường từ việc hình thành chuỗi cung ứng đã kích thích sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, Hợp tác xã, Tổ hợp tác, hộ kinh doanh… tại địa bàn các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Chính lực lượng này đã đáp ứng phần lớn nhu cầu cho sản xuất và đời sống của nhân dân, góp phần ổn định giá cả thị trường, thúc đẩy sản xuất phát triển, giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân địa phương khu vực khó khăn.

Cũng chính lực lượng này đã góp phần quan trọng vào hình thành một số vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá tập trung, nhiều mô hình sản xuất hiệu quả cao, xây dựng và phát triển được một số thương hiệu nông sản hàng hóa được thị trường trong nước và quốc tế biết đến như: Vải thiều Lục Ngạn, gà đồi Yên Thế, mỳ Chũ, mật ong rừng Sơn Động, Chè Shan tuyết Mộc Châu, Cam Cao Phong, miến dong Bắc Kạn, Bưởi Đoan Hùng…

Giải quyết bài toán lợi thế về quy mô thị trường thông qua hình thành chuỗi cung ứng cũng phản ánh quan điểm về xây dựng thể chế. Theo đó, doanh nghiệp là lực lượng nòng cốt triển khai, trong khi nhà nước đóng vai trò quản lý, thiết lập hạ tầng và tạo môi trường thuận lợi.

Thái Linh